Saturday, 31 March 2012

Dior Amber Diamond!

This weekend I was so excited to realise that a shop in my town sold Dior products, upon realising this I treated myself to the Diorskin shimmer powder in 002 Amber Diamond!

I am already in love with this product, it looks amazing in photo's and gives a gorgeous glow!

The packaging is gorgeous as you would expect for a product that costs £32.00. I don't often purchase highlights because i have oily skin and most often find then too much, but this is definitely worth the quite expensive price tag!



The lady in the shop mentioned that these were being discontinued, if anyone knows if they are please let me know,
Which is your fave highlight?




Friday, 30 March 2012

Ecclesiastes 1-6 Translation and Study Guide

My study guide and translation for Ecclesiastes 1-6 is all done!

https://docs.google.com/open?id=0B0mGcUwFcgmpRi0taDVuaUZRYjJPU3ZNTFQ0NWdzdw

If you like it, consider donating a few dollars to the House of Hesed, a transition house for people living with HIV/AIDS in Winnipeg.

GIÁ TRỊ CÔNG VỤ CỦA HỆ THỐNG CÔNG VỤ VIỆT NAM

LỜI MỞ ĐẦU
V
iệt Nam đang trong tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong vài năm gần đây, nước ta mới đề cập đến khái niệm nền công vụ trong khi công cuộc đổi mới đã tiến hành hơn hai thập kỷ qua. Mặc dù vậy, những thành quả mà hoạt động công vụ từ trước đến nay đã xây dựng nên là không nhỏ, thêm vào đó là sự ra đời của luật cán bộ, công chức đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát triển của nền công vụ. Đội ngũ cán bộ, công chức đang dần được nâng cao chất lượng nhờ các chính sách đào tạo, bồi dưỡng,… Tất cả đã tạo nên những giá trị nhất định cho nền công vụ Việt Nam.
Nền công vụ Việt Nam đã và đang được quan tâm xây dựng và phát triển cùng với công cuộc đổi mới, hội nhập. Nền công vụ Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi nền công vụ mà Thực dân Pháp đã xây dựng trước đây với mục tiêu cai trị hơn là phục vụ; còn chịu ảnh hưởng của một thời gian dài thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu. Ngoài ra, trước khi Luật cán bộ, công chức được ban hành  thì Việt Nam vẫn chưa có một định nghĩa rõ ràng về Công vụ, Cán bộ và Công chức. Không có sự phân biệt rõ ràng giữ hệ thống Đảng với hệ thống Chính phủ làm cho “tính trung lập với chính trị” của các cán bộ, công chức bị hạn chế. Điều này gây ra sự không rõ ràng trong trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ, công chức, ảnh hưởng lớn đến giá trị công vụ Việt Nam.
Giá trị của nền công vụ được đề cập khi nhắc đến những công việc của cán bộ, công chức có những nét đặc trưng riêng khác với các ngành nghề khác và nó được hiểu như là giá trị cốt lõi của của công việc do công chức đảm nhận. Theo thời gian, giá trị công vụ luôn được kế thừa, phát triển và cho tới ngày nay cùng với sự ra đời của Luật cán bộ, công chức, những giá trị của nền công vụ Việt Nam ngày càng được thể hiện rõ nét.


MỤC LỤC
Nội dung
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG VỤ VÀ HỆ THỐNG CÔNG VỤ

1. Công vụ

2. Cán bộ, công chức

3. Hệ thống công vụ

II.GIÁ TRỊ CÔNG VỤ CỦA HỆ THỐNG CÔNG VỤ VIỆT NAM

1. Một số cách tiếp cận giá trị công vụ

1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về công vụ và giá trị công vụ

1.2 Giá trị công vụ của một số nước trên thế giới

2. Biểu hiện chân giá trị của hệ thống công vụ Việt Nam

3. Đánh giá

III. PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO GIÁ TRỊ CÔNG VỤ CỦA HỆ THỐNG CÔNG VỤ VIỆT NAM.

KẾT LUẬN





I.              NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG VỤ VÀ HỆ THỐNG CÔNG VỤ
1.           Công vụ
Công vụ là một khái niệm không mới nhưng việc chính thức hóa bằng việc thể chế hóa thành các quy định của pháp luật vẫn là điều còn mới mẻ. Khi nhắc đến Công vụ một cách chung chung ta sẽ hiểu công vụ theo nghĩa của các cụm từ như: hoạt động công vụ, chế độ công vụ, nền công vụ. Trong đó, hoạt động công vụ theo Luật cán bộ, công chức quy định thì “hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức….”; còn chế độ công vụ tức là các quy định pháp luật về công vụ; nền công vụ là nghĩa rộng nhất, bao hàm không chỉ hai nghĩa trên (hoạt động công vụ và chế độ công vụ), mà cả chủ thể thực hiện hoạt động công vụ và thực tiễn hoạt động công vụ.
      Tuy nhiên, ta thường hiểu công vụ theo nghĩa hoạt động. Vì thế, Luật cán bộ, công chức đã đua ra định nghĩa về hoạt động công vụ, đây là một điểm mới so với pháp luật hiện hành, vì trước đây chưa có văn bản nào định nghĩa khái niệm này.  
      Luật cán bộ, công chức đưa ra định nghĩa về hoạt động công vụ với phạm vi rất rộng và ranh giới không rõ ràng nhưng xuất phát từ thực tiễn thực thi công vụ ở nước ta ta hiểu khái niệm công vụ một cách đầy đủ nhất đó là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính nước, trong các đơn vị sự nghiệp công lập, các đơn vị lực lượng vũ trang và doanh nghiệp nhà nước.
Một cách chung nhất, Công vụ là một hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo qui định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội.


2.           Cán bộ, công chức
Theo luật Cán bộ, công chức người thực thi công vụ là cán bộ, công chức. Tại điều 4 Luật cán bô, công chức quy định:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. 
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.


3.           Hệ thống công vụ
Hệ thống công vụ được hiểu gần giống với nền công vụ nhưng chúng không đồng nhất được với nhau. Khi cắt nghĩa ta thấy, hệ thống công vụ và nền công vụ đều chỉ ra các thành tố cấu thành nên công vụ nhưng với nền công vụ thì các thành tố đó chỉ là sự cộng hợp đơn giản theo nghĩa là tập hợp, còn đối với hệ thống công vụ thì lại chỉ ra mối quan hệ giữa các thành tố và trật tự sắp đặt của chúng.
Như vậy, hệ thống công vụ là tập hợp của các yếu tố cấu thành nên công vụ và mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó.
Các thành tố của hệ thống công vụ bao gồm:
-          Cán bộ, công chức: chủ thể thực thi công vụ;
-          Nhiệm vụ, quyền hạn: được trao cho cán bộ, công chức để đảm bảo thẩm quyền thực thi công vụ;
-          Quy định, quy chế: các văn bản pháp luật, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực thi công vụ;
-          Các nguyên tắc: là những tư tưởng cơ bản làm nền tảng chỉ đạo việc thực thi công vụ;
-          Thực tiễn hoạt động: chỉ ra tiến độ, những thành tựu và hạn chế của việc thực thi công vụ.
Trung tâm của các thành tố cấu thành nên hệ thống công vụ chính là cán bộ, công chức – người thực thi công vụ. Để thực thi công vụ thì mỗi cán bộ, công chức phải được trao cho một nhiệm vụ cụ thể kèm theo quyền hạn xác định để hoàn thành nhiệm vụ, muốn thực hiện đúng nhiệm vụ được giao thì cán bộ, công chức buộc phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định và quy chế làm việc. Thông qua đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức ta xác định được mức độ hoàn thành nhiệm vụ, đo lường kết quả thu được và những hạn chế còn tồn tại từ đó chỉ ra phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng thực thi công vụ và xác định các nhiệm vụ mới.
II.                  GIÁ TRỊ CÔNG VỤ CỦA HỆ THỐNG CÔNG VỤ VIỆT NAM
1.           Một số cách tiếp cận giá trị công vụ
Theo cách tiếp cận hệ thống công vụ như trên với thành tố trung tâm cấu thành nên hệ thống công vụ là cán bộ, công chức thì ta hiểu rằng: giá trị công vụ của hệ thống công vụ chính là những giá trị cốt lõi hay chân giá trị của những công việc do cán bộ, công chức đảm nhận. Nó có những nét khác biệt cơ bản tạo thành một nét đặc trưng riêng khác với các công việc khác trong xã hội.
Công việc do cán bộ, công chức đảm nhận có một số đặc trưng sau đây:
-          Là hoạt động hành chính nhà nước tức là hoạt động có tính chất phục vụ quyền lập pháp, phục vụ nhân dân và phục vụ xã hội;
-          Là hoạt động có tính chuyên nghiệp: tính chất này nhằm bảo đảm cho hoạt động công vụ có tính chuyên môn cao, liên tục, ổn định, tạo cơ sở để giải quyết các vấn đề phức tạp, cụ thể nảy sinh trong việc thực hiện các chức năng quản lý nhà nước.
-          Là hoạt động quản lý con người: Đây là hoạt động hành chính nhà nước, hoạt động của những người làm quản lý chuyên nghiệp. Nó không trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội nhưng bảo đảm các điều kiện, hỗ trợ, tổ chức cho hoạt động sản xuất của cải vật chất.
-          Phương tiện cho hoạt động này là nguồn thông tin: cán bộ, công chức nhà nước thực hiện các chức năng thu thập, xử lý truyền đạt, bảo quản và tạo ra các nguồn thông tin để ra quyết định;
-          Được đảm bảo bằng ngân sách nhà nước.

1.1        quan điểm của Hồ Chí Minh về công vụ và giá trị công vụ
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một kho tàng của tri thức nhân loại trong đó hàm chứa những chuẩn mực, chân giá trị của một người làm cách mạng và được Người gọi là Đạo đức cách mạng.
        Trong di sản quý giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, tư tưởng tổ chức một nhà nước pháp quyền với một nền công vụ kiểu mới, đặc biệt, tư tưởng tổ chức một chính phủ theo mô hình chính phủ hiện đại với một nền công vụ "vì dân" là một di sản cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc để rút ra những bài học bổ ích cho việc xây dựng một nền hành chính nhà nước phù hợp xu thế phát triển trong một môi trường quốc tế năng động và phức tạp ngày nay.
         Tư tưởng Hồ Chí Minh  về nền công vụ Việt Nam, bao gồm các nội dung về: Bản chất công vụ phục vụ nhân dân; xây dựng chế độ công vụ, công chức chuyên nghiệp; quản lý và sử dụng cán bộ, công chức; về chế độ khen thưởng, đãi ngộ cán bộ...
a)     Về công tác xây dựng chế độ công vụ:
Ngay sau ngày công bố bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt nam dân chủ cộng hoà, ngày 3/9/1945 Hội đồng Chính phủ lâm thời Việt nam dân chủ cộng hoà họp phiên đầu tiên tại Hà Nội. Mở đầu phiên họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Sau 80 năm bị áp bức, bóc lột, và dưới chính sách ngu dân của thực dân Pháp, các bạn và tôi, chúng ta đều chưa quen với kỹ thuật hành chính. Nhưng điều đó không làm chúng ta lo ngại. Chúng ta vừa làm, vừa học, vừa học, vừa làm. Chắc chắn rằng chúng ta sẽ phạm khuyết điểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa, chúng ta có can đảm sửa chữa khuyết điểm, với lòng yêu nước yêu nhân dân sâu sắc, tôi chắc chúng ta sẽ thành công". Quan điểm chỉ đạo này của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa sâu sắc đối với công tác xây dựng, quản lý và điều hành bộ máy của chính quyền cách mạng. Theo Người, để quản lý và điều hành bộ máy của chính quyền cách mạng cần phải có kỹ thuật hành chính. Đây là vấn đề kỹ trị trong quản lý và điều hành đất nước trong hoạt động công vụ.
Nhiệm vụ quan trọng là phải thiết lập bộ máy quản lý của chính quyền và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức và kỹ năng tác nghiệp để quản lý, điều hành công việc của đất nước và phục vụ người dân. Vấn đề tổ chức và cán bộ là vấn đề quan trọng trong xây dựng chính quyền và nền công vụ. Cần phải có "óc tổ chức" trong kiến tạo bộ máy hành chính và xây dựng nền công vụ. Đồng thời trong bộ máy của chính quyền cách mạng và trong nền công vụ phục vụ người dân cần phải có đội ngũ cán bộ, công chức tinh thông, cần mẫn có kỹ năng và phương pháp làm việc khoa học, cẩn trọng. Người nhấn mạnh "cán bộ chăm chỉ làm việc chưa đủ, cần phải biết làm việc cho có phương pháp. Trong hoạt động công vụ, giao tiếp làm việc với dân, công chức phải có phương pháp làm việc "sao cho được lòng dân". Người chỉ rõ "muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh... Ngoài ra, đối với tất cả mọi người trong tầng lớp dân chúng, ta phải có một thái độ mềm dẻo, khôn khéo, biết nhân nhượng, biết trọng nhân cách người ta... Phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư". Đây chính là đạo đức nghề nghiệp của người công chức trong hoạt động công vụ theo tinh thần và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể nói, trong xây dựng đội ngũ công chức của chính quyền cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức của người công chức. 
Ngày 17/1/1946, tại cuộc họp của các giám đốc và chủ tịch uỷ ban công sở Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài phát biểu quan trọng căn dặn anh em viên chức phải rèn luyện bốn đức tính là: cần, kiệm, liêm, chính. Người nói: "có cần, có kiệm không tiêu đến nhiều tiền, anh em viên chức mới trở nên liêm, chính để cho người ngoài kính nể được. Anh em viên chức phải gột bỏ những ý nghĩ trái với 4 nguyên tắc trên do chính sách của bọn thực dân gây nên trong đám công chức thời Pháp và Nhật thuộc. Đây là 4 nguyên tắc đồng thời là các chuẩn mực đạo đức người công chức, viên chức nhà nước phải tuân thủ, phải rèn luyện để trở thành những công bộc của nhân dân.
b)     về công tác xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp và chế độ công vụ phục vụ nhân dân:
Thể hiện tập trung và cụ thể trong Quy chế công chức Việt Nam do Người ký ban hành kèm theo Sắc lệnh số 76 ngày 20/5/1950. Đây là văn bản pháp luật cao nhất của Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà quy định về chế độ công chức, công vụ. Sắc lệnh quy định từ ngày 1/5/1950 thực hiện thống nhất một Quy chế công chức, định rõ nghĩa vụ, quyền lợi của công chức, cùng các thể lệ về việc tổ chức quản lý và việc sử dụng công chức trong toàn quốc. Quy chế quy định "công chức Việt Nam là những công dân giữ một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân, dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính phủ, công chức phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm. Đi đôi với nhiệm vụ trên, công chức Việt Nam cần có một địa vị xứng đáng với tài năng của mình". 
Quy chế quy định rõ ai là công chức, cụ thể là: "những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan chính phủ, ở trong hay ngoài nước, đều là công chức theo quy chế này trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định". Có thể nói, định nghĩa ngắn gọn rành mạch, rõ ràng, chính xác về công chức nêu trên xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản có tính chất hiến định là: chính quyền nhà nước là chính quyền của nhân dân "tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân", chính quyền nhà nước phải là "chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân". Theo định nghĩa này, những người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể, các hội, tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp công và tư đều không được quan niệm là công chức nhà nước. Theo Quy chế này "công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những công việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư".
Công chức có quyền ''hưởng lương, các thứ phụ cấp và hưu bổng; nghỉ hàng năm có lương, được chăm sóc về sức khoẻ và trợ cấp khi bị tai nạn; được hoạt động về chính trị, văn hoá và xã hội; gia nhập công đoàn.
Ngoài ra, Quy chế công chức Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành năm 1950 còn có các chương quy định cụ thể về "khen thưởng, thăng thưởng", về kỷ luật, về nghỉ hưu, ra ngạch.
Có thể khẳng định, các quy định trong Quy chế công chức Việt Nam thể hiện tinh thần xây dựng một nền hành chính (công vụ) dân chủ, chính quy, hiện đại, một nền công vụ phục vụ nhân dân, một đội ngũ công chức nhà nước cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, là công bộc của nhân dân. Vì vậy chúng ta cần đề cao trách nhiệm trong việc kế thừa và phát huy giá trị to lớn của quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chế độ công vụ và đội ngũ công chức phục vụ nhân dân.
1.2        Giá trị công vụ của một số hệ thống công vụ trên thế giới
Các giá trị trong các cơ quan nhà nước thường được xem là hình ảnh trung thực của các giá trị mà xã hội giữ gìn. Do đó những người lãnh đạo trong khu vực công luôn cố gắng hành động theo những giá trị được tôn trọng của cộng đồng, công chúng hay những nhóm người mà họ phục vụ. Hoạt động công vụ là hoạt động thực thi công vụ của nhà nước do công chức đảm nhận. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của quốc gia để có cách nhìn nhận giá trị cốt lõi. Cơ sở để xác định giá trị cốt lõi của công vụ có thể khác nhau giữa mỗi nước nhưng những chuẩn mực xã hội, nguyên tắc dân chủ và chuẩn mực nghề nghiệp là những vấn đề chung và cơ bản cần có trong giá trị nền công vụ của mỗi nước.
Nền công vụ Thái Lan
Thái Lan đang tiến hành cải cách khu vực công nhằm quản trị và quản lý công tốt hơn với mục đích cao cả là mang lại lợi ích cho nhân dân, cho xã hội và cho đất nước. Cùng với cải cách về cơ cấu, chẳng hạn như các luật lệ, cơ cấu tổ chức và quy trình làm việc, Chính phủ hoàng gia Thái Lan đã sử dụng những can thiệp đối với phát triển nguồn nhân lực như là một chiến lược khác để xây dựng năng lượng cho công chức nhằm đáp ứng được những hoạt động cải cách. Những nỗ lực này bao gồm phát triển những nhà lãnh đạo có kỹ năng và đạo đức, thay đổi quan điểm, khuyến khích văn hóa đạo đức và xây dựng các kỹ năng quản lý của tất cả các công chức Thái Lan.
Vì công chức có vai trò qua trọng trong việc phát triển đất nước và cung cấp dịch vụ cho nhân dân cùng với các bên liên quan khác nhằm đảm bảo sự đúng mực về đạo đức và tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao, mở ra mối quan hệ với các cơ quan khác, cũng như mang lại tính hiệu quả và hiệu lực cho việc thực thi công việc. Chính vì vậy mà luật đạo đức công vụ đươc ra đời để giữ gìn danh dự và uy tín cho công chức, do đó sẽ nâng cao sự kính trọng của nhân dân đối với công chức. Ngoài ra chương trình Theo bước chân Hoàng gia và Chương trình phát triển những nhà lãnh đạo làn sóng mới được đề ra dành cho các công chức Thái Lan. Theo đó thì giá trị nền công vụ của Thái Lan được thể hiện ở những đặc điểm cần có của một người công chức. Đó là những đặc điểm như:
-      Có phẩm chất đạo đức để làm việc đúng đắn
-      Trung thực và có tinh thần trách nhiệm
-      Công khai
-      Không phân biệt
-      Hoạt động nhằm vào kết quả
Luật Đạo đức nghề nghiệp của Thái Lan ra đời năm 1994 với 16 điều cụ thể về đạo đức công chức. Theo đó, công chức phải đề cao các nguyên tắc đạo đức, bản thân phải cư xử sao cho tương xứng với cương vị là một công chức nhà nước. Đồng thời công chức phải thi hành nhiệm vụ một cách trung thực, không được có thành kiến và không được mưu lợi cá nhân. Công chức phải làm việc đúng giờ và phải dành toàn bộ thời gian cho lợi ích của công vụ; phải thực hiện nhiệm vụ với hết khả năng, thận trọng và nhanh nhạy với một sự cần mẫn, chính xác hợp lý; phải luôn nhớ đến những lợi ích sẽ đem lại cho dân chúng.
Trong quan hệ với dân chúng, công chức phải phục vụ dân một cách đẹp đẽ, rộng lượng, nhã nhặn, lịch thiệp, dịu dàng, hết mình. Khi không thể giúp được người dân thì phải giải thích lý do và đề xuất đường đi nước bước đúng hướng cho người dân biết. Công chức phải kiềm chế, không được nhận từ người mình phục vụ quà biếu hay ân huệ có giá trị vượt quá giá trị mà người này thường cho người kia do quý mến, và phải báo cáo với cấp trên về việc nhận quà biếu mà sau khi nhận công chức đó thấy nó có giá trị đáng kể để có các xử lý thích hợp.
Những giá trị này được tuyên truyền sâu rộng trước công chúng bằng nhiều phương tiện khác nhau. Khi những giá trị này được thấm nhuần trong xã hội, công luận sẽ được coi là một áp lực tốt để công chức tự trau dồi đạo đức, tự hoàn thiện mình để thực hiện công việc tốt hơn
Nền công vụ Singapore
Singapore là một đất nước có nền công vụ phát triển và điển hình. Để có được những thành tựu như vậy thì nước này đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng một nền đạo đức công vụ phù hợp với những người công chức làm việc trong khu vực này. Giá trị cốt lõi trong đạo đức công vụ của Singapore được thể hiện ở một số điểm cụ thể như:
Trước tiên họ có một tầm nhìn chung – đưa Singapore từ thế giới thứ 3 lên thế giới thứ nhất. Lúc đó Singapore là một quốc gia trẻ, mới giành độc lập trước đó mấy năm. Những nhà quy hoạch có cảm tưởng họ đang tạo ra vận mệnh của chính họ. Suy nghĩ đó khiến họ đam mê công việc của mình. Và họ tin rằng có thể làm được điều đó vì họ là những người tốt nhất và thông minh nhất. Họ tự hào về công việc và muốn mọi việc họ làm có chất lượng cao nhất. Qua thời gian, những công chức như họ giúp Singapore xây dựng được cái như những người ngoại quốc gọi là nền văn hóa chất lượng xuất sắc.
Singapore muốn trở thành một phần của thế giới thứ nhất. Sau đó họ tuyển dụng những người chia sẻ tầm nhìn đó. Họ không quan tâm đến người được tuyển có kỹ năng hay không. Cái mà họ quan tâm đó là thái độ của người được tuyển. Ứng viên chỉ cần qua một cuộc phỏng vấn. Mục đích là để đánh giá thái độ. Rằng tại sao anh muốn tham gia vào nền công vụ. Anh có làm khách hàng hài lòng không? Anh làm việc với đồng sự như thế nào?...Lý do đơn giản là kiến thức, kỹ năng có thể dễ dàng tích lũy được nhưng thái độ khó thay đổi. Khi bạn có những cán bộ có thái độ đúng, bạn có cơ hội thành công. Ngoài ra họ thường xuyên đánh giá cán bộ và khen thưởng cán bộ làm việc tốt
Nền công vụ nước Anh
Nền công vụ nước Anh đề ra bốn giá trị cốt lõi là tính liêm chính, trung thực chân thật, tính khách quan, không thiên vị
Luật công vụ Canada
Canada cũng đưa ra bốn nhóm tiêu chí về  giá trị cốt lõi là dân chủ, chuyên môn nghề nghiệp, chuẩn mực ứng xử, giá trị nhân dân
Nhìn tổng thể chung trong giá trị của một số nền công vụ trên thế giới ta có thể khái quát và tập trung vào tính khách quan, tính trung thực, tính chuyên nghiệp và tính hiệu quả. Các quốc gia có cùng quan điểm là cần phải tôn trọng những giá trị chuẩn mực xã hội đã có; công chức khi làm việc phải phát huy những gì được cho là thực chất, phản ánh những gì là sự thật, tất cả vì mục đích là tạo ra một kết quả tốt nhất.
2.           Biểu hiện chân giá trị của hệ thống công vụ Việt Nam
Cũng như nhiều loại nghề nghiệp khác, hoạt động công vụ do công chức đảm nhận phải hướng đến chân giá trị nhất định. Do bản chất của công việc do công chức đảm nhận là quản lý nhà nước và cung cấp nhiều loại dịch vụ (công) cho xã hội nên định hướng những giá trị cốt lõi của công vụ phải được xác định dựa trên những đặc tính công việc đó.
Do hoạt động của công chức là thực thi các công việc của nhà nước nên phải hiểu rõ đối tượng mà công chức hướng đến cũng như mục tiêu của công việc mà họ đảm nhận. Cả hai yếu tố này hoàn toàn không do người thực thi công việc quyết định mà do chính nhà nước và đích thực là do nhân dân quyết định. Công việc mà công chức đảm nhận chính là sự ủy thác, sự tin tưởng của công chúng và họ giao cho nhà nước và thông qua công chức thực hiện.
Tính chất đặc biệt nêu trên của công việc do công chức đảm nhận, nên các đạo luật về việc làm trong khu vực nhà nước, gọi chung là luật công vụ. Mỗi một nước, căn cứ vào điều kiện cụ thể đưa ra một hệ thống các giá trị cốt lõi của công việc do công chức đảm nhận (công vụ).
Công việc do công chức đảm nhận là một bộ phận quan trọng của Chính phủ tất cả các nước trên thế giới. Đó chính là những hoạt động nhằm giúp Chính phủ xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển quốc gia cũng như cung cấp dịch vụ cho công dân. Công chức thực thi công việc phải chịu trách nhiệm đối với cơ quan, Nhà nước và công dân.
Trong pháp luật Việt Nam về cán bộ, công chức, thuật ngữ công vụ cũng đã được sử dụng. Nhưng luật cán bộ, công chức ở của Việt Nam chỉ quy định một số nguyên tắc cơ bản cho hoạt động công vụ như sau:
Điều 3. Các nguyên tắc trong thi hành công vụ
             1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
             2. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
            3. Công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát.
            4. Bảo đảm tính hệ thống, thống nhất, liên tục, thông suốt và hiệu quả.
            5. Bảo đảm thứ bậc hành chính và sự phối hợp chặt chẽ.
            Những nguyên tắc này là những tư tưởng chỉ đạo cơ bản để cho hoạt động thực thi công vụ diễn ra khách quan, trung thực, chuyên nghiệp và hiệu quả giống như một số nền công vụ của một số nước trên thế giới nêu trên. Các nguyên tắc nói chung có đặc điểm là nếu tuân thủ thì khả năng đạt được mục tiêu cao nhưng nếu không tuân thủ thì không thể đạt được mục tiêu đã đề ra, do đó việc tuân thủ nguyên tắc trong thực thi công vụ rất quan trọng vì kết quản hoạt động công vụ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhà nước, công dân. Xuất pháp từ tầm quan trọng của hoạt động thực thi công vụ, khi xây dựng các nguyên tắc cho hoạt  động này cần phải đưa ra được những chân lý mang tính chuẩn mực để cho cán bộ, công chức khi thực thi công vụ tự nhận thức được rằng cần phải tuân thủ các nguyên tắc đó.
           Ngoài ra trong luật cán bộ, công chức còn quy định về đạo đức đối với người thực thi công vụ như sau:
 Điều 15. Đạo đức của cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ.
Mặc dù khái quát đạo đức của cán bộ, công chức một cách chung chung như vậy nhưng những đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư vẫn là những chuẩn mực rất có giá trị đối với một người làm cách mạng (cách diễn đạt của Hồ Chí Minh) hay đối với cán bộ, công chức phục vụ nhân dân.
Điều 16. Văn hóa giao tiếp ở công sở
1. Trong giao tiếp ở công sở, cán bộ, công chức phải có thái độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc.
2. Cán bộ, công chức phải lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp; công bằng, vô tư, khách quan khi nhận xét, đánh giá; thực hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ.
3. Khi thi hành công vụ, cán bộ, công chức phải mang phù hiệu hoặc thẻ công chức; có tác phong lịch sự; giữ gìn uy tín, danh dự cho cơ quan, tổ chức, đơn vị và đồng nghiệp.
Điều 17. Văn hóa giao tiếp với nhân dân
1. Cán bộ, công chức phải gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc.
2. Cán bộ, công chức không được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân khi thi hành công vụ.
Như vậy hoạt động công vụ là hoạt động thực thi công việc của nhà nước do công chức đảm nhận, vì vậy công chức thực thi công việc trong khu vực nhà nước phải hướng đến những giá trị nghề  nghiệp của mình. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia để có những cách nhìn nhận giá trị cốt lõi. Do tính chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân nên khi thực thi công việc, công chức phải quan tâm, xem xét tất cả các yếu tố thuộc về giá trị cốt lõi của những hoạt động của nhà nước ủy quyền cho công chức thực hiện, đặc biệt là các nguyên tắc được ghi trong luật cán bộ, công chức để phục vụ nhân dân tốt hơn, nâng cao hơn nữa giá trị của nền công vụ nước ta.
3.           Đánh giá
Trước hết, cần khẳng định đại bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức của chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, cố gắng thực hiện và phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, giữ vững đạo đức, phẩm chất cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, chấp hành sự phân công của tổ chức, lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân. Mặc dù gặp nhiều khó khăn và chịu tác động phức tạp trong điều kiện chuyển đổi kinh tế - xã hội, nhưng đội ngũ cán bộ, công chức đã góp phần đóng vai trò quyết định những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, kể cả một số cán bộ, đảng viên cao cấp thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, tha hóa về đạo đức, lối sống. Một bộ phận cán bộ, công chức né tránh, thiếu bản lĩnh đấu tranh với những hành vi quan liêu, tham nhũng, tiêu cực. Một số cán bộ, công chức nhà nước, chưa thực sự lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu, làm thước đo chủ yếu nhất cho mức độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ của mình. Quan hệ của họ với nhân dân thậm chí còn mang dấu ấn cai trị theo kiểu ban phát, thiếu bình đẳng, thiếu tôn trọng. Từ đó, dẫn đến tình trạng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, gây phiền hà đối với nhân dân và lợi dụng chức trách, thẩm quyền được Nhà nước và nhân dân giao phó để nhận hối lộ, tham nhũng, buôn lậu, làm biến dạng những giá trị và tiêu chuẩn đích thực của người cán bộ, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII nhận định: "Một bộ phận cán bộ thoái hóa biến chất về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng phí của công; quan liêu, ức hiếp dân, gia trưởng độc đoán; có tham vọng cá nhân, cục bộ, kèn cựa địa vị, cơ hội, kém ý thức tổ chức kỷ luật, phát ngôn và làm việc tùy tiện, gây mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng".
Đáng chú ý là số lượng cán bộ, công chức bị xử lý kỷ luật và truy cứu trách nhiệm hình sự, trong đó có cả một số cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, trong những năm gần đây ngày càng tăng. Điều đó phản ánh sự xói mòn phẩm chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, công chức, làm suy giảm uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với chế độ. 
Thực trạng của những khuyết, nhược điểm về phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, song chủ yếu do những nguyên nhân chủ quan. Không ít cán bộ, công chức còn xem thường những chuẩn mực đạo đức, nhân cách, nên thiếu nghiêm khắc với bản thân, không thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng mình. Cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát của tổ chức và thủ trưởng trực tiếp cũng như của nhân dân đối với hoạt động của cán bộ, công chức còn hạn chế, chưa thường xuyên, nghiêm túc và thiếu đồng bộ. Việc xử lý các vi phạm đạo đức của cán bộ, công chức chưa nghiêm đã dẫn đến hạn chế kết quả răn đe, giáo dục.
Công tác giáo dục đạo đức chậm được đổi mới: nội dung giáo dục chưa cụ thể, sát hợp với từng đối tượng, còn giáo điều, chủ quan, phiến diện, duy ý chí, phi thực tế, thiếu cơ sở khoa học; hình thức giáo dục đơn điệu, qua loa đại khái hoặc phô trương hình thức, dễ gây nhàm chán. Do đó, hiệu quả giáo dục đạo đức chưa cao, thậm chí có trường hợp phản tác dụng. Khi đề cập đạo đức thì coi nhẹ hoặc quên tài năng, nhưng khi cần nhấn mạnh tài năng của người cán bộ thì lại có biểu hiện coi nhẹ đạo đức, coi thường lòng tốt, phẩm hạnh một cách phiến diện, cực đoan. 
Một biểu hiện cụ thể và rõ nét nhất thể hiện nhược điểm mà nền công vụ Việt Nam đang gặp phải trong việc giữ gìn giá trị nền công vụ của nước mình đó là vụ án ở Tiên Lãng – Hải Phòng. Chính trong những ngày nóng bỏng ở đây, nhiều cán bộ các cấp từ tỉnh đến huyện ở Hải Phòng đã có những phát ngôn đáng nhớ. Dĩ nhiên là khó có thể đánh giá đầy đủ mỗi con người chỉ bằng vài câu nói, nhưng những gì dư luận nghe và thấy từ Hải Phòng cũng có thể thấy rằng đạo đức, tư cách, nhận thức và dường như năng lực lãnh đạo của một vài cá nhân là “có vấn đề”. Một việc phá nhà của người khác thì không dễ gì người dân có thể làm được mà vị lãnh đạo lại dễ dàng tin vào báo cáo của cấp dưới. Một vị lãnh đạo lực lượng vũ trang vốn có nhiệm vụ phải bảo vệ dân nhưng lại rất hào hứng khi nói về kinh nghiệm phối hợp cưỡng chế rất là hay, rất là đẹp và có thể viết thành sách. Còn một cán bộ khác thì chẳng ngần ngại gì khi mạo danh một vị cán bộ nghỉ hưu để đánh lừa dư luận. Còn rất nhiều cán bộ khác tuy đã biết mình sai nhưng vẫn không thừa nhận mà vẫn tìm cách chối tội, đổ lỗi trách nhiệm cho người khác. Qua đây có thể nói rằng, đạo đức, tư cách của hàng loạt quan chức thể hiện qua vụ Tiên Lãng là rất yếu kém và đáng báo động. Khi bị xử lý kỷ luật, những cán bộ Đảng viên chịu trách nhiệm trực tiếp hoặc có hành vi sai phạm như chỉ đạo điều hành, tham mưu, ra quyết định… là những người được xem xét đến đầu tiên và cũng dễ dàng quy trách nhiệm. Nhưng những cá nhân có những phát ngôn không đúng, nhận thức lệch lạc cũng cần phải được kiểm điểm, xem xét lại về đạo đức, năng lực xem anh ta có xứng đáng ngồi ở vị trí đó không. Đó không chỉ là mong muốn của dư luận mà còn là một trong những việc cần làm để thực hiện nghị quyết trung ương 4 về xây dựng và chỉnh đốn Đảng.


III.               PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO GIÁ TRỊ CÔNG VỤ CỦA HỆ THỐNG CÔNG VỤ VIỆT NAM
Để nâng cao đạo đức công vụ, cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ. Hệ thống giải pháp này vừa đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện của con người; vừa có cơ chế tạo điều kiện cho các giá trị đạo đức phát triển và ngăn ngừa hạn chế sự sa sút, suy thoái đạo đức.
1.      Loại giải pháp về giáo dục, đề cao giá trị đạo đức, đề cao sự tự rèn luyện, tu dưỡng của cán bộ, công chức. Khuyến khích, tôn vinh sự hướng thiện vì lý tưởng phục vụ nhân dân, đất nước, sự nghiệp chung, vì mọi người của cán bộ, công chức. Trong nền kinh tế thị trường càng phải đề cao loại giải pháp này, coi trọng giá trị đạo đức, không vụ lợi, ích kỷ. Thực hiện loại giải pháp này cần tăng cường công tác giáo dục và tự giáo dục; có sự khen thưởng, tôn vinh những người làm việc tốt, phục vụ tận tụy và có hiệu quả công vụ cao.
2.      Loại giải pháp đổi mới hoàn thiện cơ chế để cán bộ, công chức có điều kiện phát huy đạo đức, thực hiện tốt nhiệm vụ, phục vụ tốt nhân dân. Phải rõ chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan, tổ chức; từng cá nhân cá bộ, công chức phù hợp với sự quản lý và phục vụ trong thời kỳ mới. Cơ chế phải loại bỏ được những yếu tố dẫn tới khả năng tiêu cực, xin cho, sách nhiễu dân trong tổ chức hoạt động, trong thủ tục của Nhà nước. Việt Nam đang cải cách hành chính, tạo mô hình mới về tổ chức và hoạt động hợp lý của bộ máy hành chính nhà nước cũng là tạo cơ chế để cho cán bộ, công chức làm điều tốt, có điều kiện cống hiến, phát huy năng lực phục vụ đất nước và nhân dân.
3.      Loại giải pháp về đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với cán bộ, công chức.
-         Cải cách để có tiền lương đảm bảo trả đúng lao động của cán bộ, công chức, để cán bộ, công chức không tham nhũng, sách nhiễu, buộc phải làm việc kiếm sống thêm, buộc phải làm những việc tiêu cực. Tiền lương, tiền thưởng phải thể hiện giá trị cống hiến, lao động của cán bộ, công chức, tạo động lực thực hiện nhiệm vụ.
-         Các chế độ, chính sách khuyến khích sự tận tâm thực hiện công vụ; khen thưởng thích đáng về vật chất và tinh thần cho cán bộ, công chức làm việc tốt, tận tụy và trong sạch (các cơ quan đơn vị nên có quỹ khen thưởng dành cho cán bộ, công chức làm việc tốt).
4.      Loại giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức; kiểm tra, giám sát; ngăn ngừa và xử phạt sự vi phạm đạo đức công vụ.
-         Loại giải pháp này đòi hỏi phải có quy định rõ, cụ thể các hành vi cán bộ, công chức không được làm; có chế tài đối với các hành vi vi phạm đạo đức. Tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ; tăng cường kỷ luật; chống tham nhũng, quan liêu. Xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm đạo đức công vụ, tùy theo mức độ vi phạm; kể cả truy cứu trách nhiệm hình sự.
-         Phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và hoạt động công vụ. Hoàn thiện và thực hiện tốt quyền dân chủ của nhân dân, đặc biệt là quyền dân chủ cơ sở để nhân dân thực hiện tốt quyền trực tiếp và gián tiếp kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ của cán bộ, công chức.
-         Hoàn thiện cơ chế quản cán bộ, công chức, làm rõ thẩm quyền quản lý từng loại cán bộ, công chức của từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, đơn vị, từng cá nhân, người đứng đầu để rõ quyền hạn và trách nhiệm trong quản lý và chịu trách nhiệm đối với hoạt động công vụ của cán bộ, công chức thuộc quyền.
5.      Tiếp tục hoàn thiện thể chế về đạo đức công vụ. Có các quy định cụ thể, đầy đủ về tiêu chuẩn đạo đức cho các loại cán bộ công chức. Xây dựng một hệ thống đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức công chức hành chính quản lý, đạo đức nghề nghiệp thầy giáo, đạo đức nghề nghiệp thầy thuốc; đạo đức khoa học, đạo đức cán bộ, công chức tư pháp, giữ gìn pháp luật,… Trên cơ sở đó hình thành dần, hoàn thiện dần thể chế đạo đức công vụ để xây dựng luật Đạo đức công chức công vụ trong thời gian tới.
Các giải pháp nêu trên phần nào mang tính phương hướng, để có thể thực hiện đầy đủ các giải pháp đó cần phải có những mô hình cụ thể, chi tiết. Do những hạn chế về năng lực nghiên cứu cũng nhưng mục đích nghiên cứu của đề tài không cho phép đi sâu một cách chi tiết về từng giải pháp cụ thể.

KẾT LUẬN
Hệ thống công vụ là một bộ máy cho ra những sản phẩm gọi là dịch vụ hành chính công. Việc xem xét và nhìn nhận lại những giá trị của nó sẽ giúp chúng ta cũng như các nhà hoạch định chính sách hiểu được tầm quan trọng vủa hoạt động công vụ. Hoạt động công vụ với vai trò là phục vụ mục tiêu chính trị, phục vụ nhà nước và phục vụ nhân dân đã phản ánh một tầm quan trọng mà không có một hệ thống tư nhân nào có thể đảm nhận công việc này. Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động công vụ  chúng ta cần phải đề cao giá trị của nó để biến hoạt động công vụ thành một chuẩn mực, một chân giá trị mang sứ mệnh phục vụ vì lợi ích của nhà nước, của nhân dân là trên hết. Những chuẩn mực và chân giá trị được hình thành sẽ dẫn dắt hành vi của các cán bộ, công chức – người thực thi công vụ theo một cách tự nguyện tuân thủ các nguyên tắc cuả hệ thống và sự chân thành trong công việc tất nhiên sẽ cho ra những sản phẩm có chất lượng để hoàn thành nhiệm vụ nhà nước giao phó và đáp lại lòng tin cảu dân chúng gửi gắm cho mỗi cán bộ, công chức. Công cuộc cải cách hành chính ở nước ta không ngừng được thực hiện, thiết nghĩ đây cũng là một cách để dần quy chuẩn hành vi của cán bộ, công chức đến một chân giá trị chung. Chân giá trị chung này sẽ tác dụng mỗi khi một cá nhân trong xã hội được liệt vào trong hàng ngũ của cán bộ, công chức họ sẽ nhận thức được rằng họ hoạt động với mục đích phục vụ không vì mục tiêu cá nhân mà vì mục tiêu của nhà nước, họ vẫn sẵn sàng làm việc cho dù biết điều dó.
  Nâng cao giá trị của hệ thống công vụ Việt Nam gắn liền với nâng cao đạo đức công vụ của cán bộ, công chức vì nói cho cùng thì cán bộ, công chức chính là người thực thi công vụ, người vận hành hệ thống công vụ. Các cuộc cải cách hành chính được tiến hành trên rất nhiều phương diện nhưng chúng ta vẫn luôn phải khẳng rằng: “cải cách con người là cải cách quan trọng nhất”./.

TÀI LIỆU
1. Đạo đức trong nền công vụ - Nxb Lao động – Xã hội do Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn và Nguyễn Thị Kim Thảo biên soạn

Thursday, 29 March 2012

ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT SƯ

ĐỀ TÀI:   ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT SƯ

                                                         
Giảng viên hướng dẫn:
Th.s Lê Cẩm Hà
Sinh viên thực hiện:
Vũ Thị Mai Trang

Phạm Thị Hiền

Đinh Thị Vân

Nguyễn Thị Oanh

Trần Thị Thảo

Nguyễn Thị Thắng

Hà Thị Thu

Nguyễn Thu Hảo

Phạm Thị Thơ

Phạm Thị Khánh

Phạm Thị Hậu

Phùng Thị Phương
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và tình cảm chân thành, chúng em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô trong khoa Khoa Tổ chức và Quản lý nhân sự. Đã tham gia giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ chúng em trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài tiểu luận.Chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Th.s Lê Cẩm Hà người thầy - người hướng dẫn chúng em tận tình, trong suốt quá trình chúng em tiếp cận, tìm hiểu và nghiên cứu đề tài. Cô đã động viên giúp đỡ chúng em hoàn thành bài tiểu luận.
Chúng em xin được cảm ơn Thư viện trường Học viện Hành chính đã tạo điều kiện cho chúng em mượn tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu tiểu luận, hỗ trợ chúng em rất nhiều về mặt tài liệu.Xin được cảm ơn gia đình, bạn bè luôn sát cánh động viên, khích lệ chúng em. Cảm ơn các bạn trong nhóm đã tích cực làm việc với tinh thần trách nhiệm cao.Trong  suốt quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, thu thập thông tin liên quan đến đề tài  nhóm chúng em đã cố gắng nỗ lực để hoàn thành tiểu luận được tốt nhất.
 Song do thời gian có hạn, việc thu thập tài liệu chuyên ngành chúng em cũng gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy, dù đã cố gắng nhưng bài tiểu luận của nhóm chúng em không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế về nội dung cũng như cách nhìn nhận đánh giá. Chúng em rất mong thầy cô và các bận xét, đánh giá và bổ sung những hạn chế đó. Để chúng em có thể học hỏi, chỉnh sửa và hoàn thiện bài tiểu luận hơn nữa.
                                                                   Nhóm5 – KH10NS1


Hà Nội, tháng 3 năm 2012.
LỜI MỞ ĐẦU.
Mỗi nhà nước muốn tồn tại cần xây dựng được một hệ thống pháp luật chặt chẽ, đảm bảo được thực thi trên phạm vi lãnh thổ toàn quốc gia. Nhưng để pháp luật đi vào cuộc sống , để pháp luật được tôn trọng thì cần có đội ngũ những người làm nghề luật, những người bảo vệ pháp luật.
Cũng như bất cứ một ngành nghề nào khác, những người làm nghề luật cũng có những giá trị đạo đức riêng của mình.Đó chính là những quy tắc ứng xử mà những nhà hành luật phải tuân thủ nghiêm minh trong quá trình hành unghề. Hiện nay có rất nhiều luất sư vừa có đức vừa có tài nhưng cũng có những luật sư đang suy thoái đạo đức nghiêm trọng.
Chính vì thực tế đó mà bài tiểu luận của nhóm em sẽ đi tìm hiểu những điểm tiêu cực và hạn chế trong đạo đức nghề luật sư. Bài tiều của nhóm em thực hiện dựa trên phương pháp phân tích, tổng hợp ….Bài tiểu luận là sự cố gắng của cả nhóm song vẫn chưa thể hoàn chỉnh , kính mong cô và các bạn cho ý kiến để bài của nhóm em thêm hoàn chỉnh.
    
NỘI DUNG.
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT VỀ NGHỀ LUẬT.
 1. Nghề luật
Ở nghĩa rộng nhất, nói đến những người làm nghề luật là chúng ta nói đến thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên, công chứng viên…
Thẩm phán được hiểu là những người làm việc tại Toà án, được quyền nhân danh Nhà nước để xét xử các vụ án. Thẩm phán - ở nghĩa lý tưởng được hiểu là người được quyền ra quyết định cuối cùng để mang lại sự công bằng cho mọi người, cứu người vô tội và trừng phạt kẻ ác.
Kiểm sát viên là người buộc tội tại phiên toà (ở nước ngoài thường được gọi là công tố viên). Họ được quyền đưa một vụ phạm pháp ra xem xét để xử lý, ra lệnh bắt giữ, tham gia điều tra vụ án, truy tố người phạm tội.
Công chứng viên là người làm việc tại các Phòng công chứng, có quyền xác nhận tính hợp pháp của các giao dịch, hợp đồng...
Nếu hiểu nghề luật như là nghề kiếm sống có liên quan đến luật, có thể kể ra nhiều công việc khác cũng được gọi là nghề luật như: chấp hành viên, điều tra viên, giám định viên, chuyên viên pháp lý, cố vấn pháp lý, giáo viên dạy luật, cán bộ nghiên cứu pháp luật... trong các cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan công an, cơ quan hành chính Nhà nước, các tổ chức đoàn thể,
2. Nghề luật sư
Ở nghĩa hẹp hơn, nói đến nghề luật là chúng ta nói đến nghề luật sư. Nghề luật sư là nghề luật tiêu biểu nhất, nghề luật sư thể hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của nghề luật.
Ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì yêu cầu về việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Đây là một nét đặc thù riêng của nghề luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của luật sư.
Trong suy nghĩ của chúng ta, hoạt động nghề nghiệp của luật sư bao gồm ba tính chất: trợ giúp, hướng dẫn và phản biện.
2.1.Tính chất trợ giúp
Do sự phát triển không đồng đều cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần, bất kỳ xã hội nào trong cộng đồng dân cư cũng tồn tại những người rơi vào vị thế thấp kém so với mặt bằng xã hội như người nghèo, người già đơn côi, người chưa thành niên mà không có sự đùm bọc của gia đình… Những người ở vào vị thế thấp kém này thường bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật và rất cần sự giúp đỡ, bênh vực của những người khác và đặc biệt cần sự trợ giúp hoàn toàn vô tư, không vụ lợi của luật sư.
Ở thời kỳ cổ đại, những người dám đứng ra bênh vực, trợ giúp các đối tượng bị ức hiếp được xã hội tôn vinh như là các “hiệp sỹ”. Ngày nay, xã hội loài người đã phát triển nhưng ở nhiều nước, ở nhiều địa phương vẫn tồn tại những người ở vào vị thế thấp kém, vẫn tồn tại sự ức hiếp, sự đối xử bất công. Hoạt động trợ giúp của luật sư đối với những đối tượng này không chỉ là bổn phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của luật sư.
2.2.Tính chất hướng dẫn
Tính chất nghề nghiệp đòi hỏi luật sư không chỉ thông hiểu pháp luật hiện hành mà còn hiểu biết cả tinh thần, nội dung những quy định của pháp luật ở từng thời điểm của thời gian đã qua. Luật sư còn phải hiểu sâu rộng cả tục lệ và bản sắc văn hoá của dân tộc.
Mọi người hiểu và nghĩ về luật sư như vậy, cho nên mỗi khi bản thân hoặc gia đình có điều gì vướng mắc đều tìm đến luật sư, nhờ luật sư tư vấn. Vì vậy, hoạt động của luật sư luôn luôn có tính chất hướng dẫn. Yêu cầu của hoạt động này là hướng dẫn cho đương sự hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật để biết cách xử sự tháo gỡ vướng mắc của họ phù hợp với pháp lý và đạo lý.
2.3.Tính chất phản biện
        Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư là những biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp lý và đạo lý.
Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư, thông thường thể hiện ở lĩnh vực tố tụng, đặc biệt là trong tố tụng hình sự. Điều 36, khoản 3 Bộ Luật tố tụng hình sự hiện hành quy định: “Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
Phản biện là phải dựa trên sự thông hiểu tường tận về pháp lý và đạo lý. Hoạt động phản biện của luật sư là lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai…từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ cái sai, bảo vệ công lý.
Người phạm tội phải chịu sự trừng phạt của pháp luật, nhưng không thể bị tra tấn, đánh đập, hành hạ về thể xác cũng như xúc phạm nhân phẩm. Sự có mặt của luật sư là cần thiết bởi những người đã lâm vào vòng lao lý, phải đối mặt với uy lực của cơ quan công quyền, không phải ai cũng có đủ can đảm tự bảo vệ quyền hợp pháp của mình. Người xưa đã có câu: “Khôn ngoan đến cửa quan mới bíết".
Do vai trò và tác dụng của hoạt động luật sư, nên Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã nêu rõ: “Bằng hoạt động của mình luật sư góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa".
Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị viết: “Các cơ quan Tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá tŕnh tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, bị cáo, nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh luận dân chủ tại phiên toà…”.
Xuất phát từ tính chất đặc thù của nghề luật sư, nó đòi hỏi luật sư ngoài các phẩm chất chung là Chân, Thiện, Mỹ,còn phải là người có khối óc thông minh, tấm lòng trong sáng, dũng cảm, biết lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm cơ sở hoạt động mới xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội.
3.Nghề luật sư trong quá khứ
Nghề luật sư luôn gắn với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật. Có thể nói luật gia đầu tiên xuất hiên trong xã hội chính là nhà lập pháp, người định ra các quy phạm pháp luật. Sau đó là sự xuất hiện của các thẩm phán, người có nhiệm vụ bảo đảm cho các quy phạm pháp luật được tôn trọng và cũng là người quyết dịnh hình phạt đối với người vi phạm các quy phạm pháp luật.
Lúc đầu, chứng cứ của hành vi vi phạm pháp luật chỉ dựa vào sự suy đoán hay những lời thề thốt, thú nhận của các bên có liên quan. Việc bào chữa, biện hộ cho các bên chưa được bảo đảm. Nghề luật sư xuất hiện, luật sư tham gia vào quá trình xét xử, đảm bảo công việc bào chữa trong tòa. .
Nghề luật sư đã xuất hiện ở châu Âu từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại. Vào thế kỷ V trước Công nguyên, trong nhà nước Hy Lạp cổ, tổ chức toà án hình thành và việc xét xử có sự tham gia của mọi người dân. Nguyên cáo hoặc bị cáo có thể tự tŕnh bày ư kiến, lư lẽ của ḿnh trước Toà hoặc nhờ người khác có tài hùng biện trình bày hộ ý kiến, lý lẽ trước Toà. Việc bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh oan cho bạn bè hoặc người thân bị nhà cầm quyền bắt giam vô cớ và trừng phạt một cách độc đoán dần phát triển.
Ở La Mã cổ đại, cũng với sự xuất hiện của pháp luật đã xuất hiện những mầm mống của nghề luật sư. Pháp luật La Mã cổ đại mang tính huyền bí, thần thánh và việc áp dụng pháp luật gắn liền với lễ nghi tôn giáo. Trong phiên toà, có sự tham gia của các nhà chuyên môn, người am hiểu pháp luật để nhắc lại những quy tắc, quy định tôn giáo để tránh việc viện dẫn sai hoặc vi phạm thủ tục tố tụng.
Trong xã hội dần dần hình thành một nhóm người chuyên sâu, am hiểu về pháp luật và việc diễn giải pháp luật của họ được xem xét như hoạt động nghề nghiệp. Hoạt động của các luật sư được chấp nhận và uy tín của họ trong xã hội ngày càng được nâng cao. Nghề luật sư được xem như một nghề vinh quang trong xã hội.
Sau khi  Đế quốc La Mã tan rã, châu Âu chuyển sang thời kỳ Trung cổ với các triều đại phong kiến phân quyền cát cứ. Tổ chức Toà án và chế độ luật sư ở các nước được xây dựng dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích phục vụ tôn giáo và chế độ phong kiến.
Dưới chế độ tư bản, nghề luật sư được tổ chức chặt chẽ với những điều kiện khắt khe nhằm bảo vệ quyền lợi riêng cho một số ít người xuất thân từ giai cấp bóc lột. Từ xuất phát điểm của những người tự nguyện thực hiện việc bào chữa vì sự thật và công lý, nghề luật sư dưới chế độ tư bản dần dần trở thành nghề tự do, nghề làm vì tiền.
Ở Việt Nam, từ năm 1930 trở về trước, người Pháp chiến độc quyền trong hành nghề luật sư. Với Sắc lệnh ngày 25/5/1930 của Toàn quyền Đông Dương, thực dân Pháp tổ chức Hội đồng luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn cho những người đã tốt nghiệp luật khoa và đã tập sự 5 năm trong một Văn phòng biện hộ của luật sư thực thụ.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 tổ chức đoàn thể luật sư. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo được ghi nhận ngay trong Sắc lệnh về Toà án ngày 13/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà. Do hoàn cảnh kháng chiến, một số luật sư tham gia cách mạng, một số luật sư chuyển sang hoạt động ở lĩnh vực khác, nghề luật sư thời kỳ này hầu như không được chú trọng.
Sau hoà bình lập lại, để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo đã được Hiến pháp 1959 quy định, năm 1963, Văn phòng luật sư thí điểm được thành lập lấy tên là Văn phòng Luật sư Hà Nội.
4.Nghề luật sư hiện tại: Vấn đề xây dựng một đội ngũ luật sư đạo đức và tài năng.
Luật sư ở nước ta hiện nay còn đang thiếu và mới chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu của xã hội. Thống kê cho thấy chỉ khoảng dưới 10% vụ án có luật sư. Số luật sư lại chủ yếu tập trung tại các đô thị lớn (riêng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 50 % tổng số luật sư toàn quốc). Luật sư còn rất thiếu ở vùng sâu, vùng xa .
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và hoà mình vào dòng chảy toàn cầu hoá, pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về luật sư nói riêng đã không ngừng hoàn thiện, sửa đổi bổ sung để tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển đội ngũ luật sư và nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ luật sư. Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đặt ra yêu cầu cấp bách là đất nước cần có một đội ngũ luật sư đạo đức và tài năng. Nghĩ về nghề luật sư hôm nay, chúng ta thấy nổi lên hai vấn đề chính đó là vấn đề đạo đức nghề nghiệp và vấn đề nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của luật Sư.
        Đạo đức nghề nghiệp của luật sư: Khi bàn về đạo đức nghề nghiệp luật sư, có nhiều ý kiến và quan niệm khác nhau. Có ý kiến cho rằng, trong xã hội nghề nào cũng đòi hỏi người làm nghề phải có lương tâm, trách nhiệm đối với nghề của mình trước xã hội. Bởi vậy không cần phải đặt đạo đức nghề nghiệp luật sư thành vấn đề riêng. Ý kiến khác lại cho rằng, trong thời buổi kinh tế thị trường, mọi nghề trong xã hội đều mang tính cạnh tranh và nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Nghề luật sư là một nghề giống như các nghề khác, cũng phải chịu sự chi phối của quy luật thị trường do đó đặt đạo đức nghề nghiệp luật sư thành một vấn đề riêng biệt là hoàn toàn vô lý.
Người ta bất cứ làm nghề gì cũng đều phải có lương tâm, trách nhiệm đối với công việc của mình. Nhưng mỗi ngành nghề khác nhau đều có tính chất khác nhau, đòi hỏi lương tâm, trách nhiệm, đạo đức của người làm nghề có sự khác nhau. Nhưng nghề luật sư lại có đặc thù riêng, đó là phải gắn liền với các lĩnh vực pháp luật của Nhà nước trong khi đó các ngành nghề khác chỉ quan hệ đến một vài lĩnh vực pháp luật có liên quan mà thôi.
Luật sư là nghề nghiệp đặc thù, đòi hỏi sự "trong sáng về đạo đức". Người làm công việc này phải tuân theo những quy tắc đạo đức hành nghề bắt buộc, có như vậy mới nâng cao được uy tín và vị thế trong xã hội. Với thiên chức của nghề người luật sư đòi hỏi cần phải nhận thức và ứng xử một cách có đạo đức trong quan hệ xã hội về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể tuân thủ những giá trị chuẩn mực của cuộc sống đã đem lại.Khi đề cập đến đạo đức của nghề luật sư la chúng ta đề cập sứ mệnh mà người luật sư phải thực hiện , là nói đến phẩm chất, thanh danh của họ, là kỹ năng hành nghề và cuối cùng là những chuẩn mực ứng xử của luật sư trong hành nghề.
CHƯƠNG II : GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT.
I.Khái quát về quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư.
1. Khái niệm chung về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.
 1.1.Khái niêm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc,  chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ xh, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền thống và dư luận xã hội. (Giáo trình Đạo đức học 2000).
1.2.Quy tắc đạo đức và ững xử nghề nghiệp luật sư
Cho đến nay, về mặt khoa học pháp lý, chưa có một định nghĩa chính thức mang tính chất kinh điển về khái niệm quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư. Trong nhiều bài viết, tham luận về vấn đề đạo đức nghề nghiệp luật sư, mỗi tác giả cũng đưa ra quan niệm của mình về vấn đề này bằng cách tiếp cận dưới các góc độ khác nhau.
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư đã được Hội đồng luật sư toàn quốc thông như sau :
“Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư là những quy tắc xử sự được thể hiện dưới hình thức văn bản chứa đựng những quy phạm đạo đức và ứng xử nghề nghiệp do Hội đồng luật sư toàn quốc ban hành để điều chỉnh hành vi của các thành viên Liên đoàn luật sư Việt Nam trong quan hệ với các chủ thể có liên quan khi hoạt động nghề nghiệp và trong giao tiếp xã hội
Trong đời sống thường nhật, luật sư tham gia vào các quan hệ xã hội,  các quan hệ nghề nghiệp, trong đó có các quan hệ tố tụng trong các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động, hành chính. Trong các quan hệ tố tụng nêu trên lại diễn ra nhiều loại quan hệ giữa các chủ thể khác như : quan hệ giữa luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng qua các giai đoạn tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; quan hệ với khách hàng, với những người tham gia tố tụng khác, quan hệ với đồng nghiệp, v.v.. Với tư cách một chủ thể tham gia trong các quan hệ tố tụng, luật sư có những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định theo quy định của pháp luật. Đó là những quyền và nghĩa vụ pháp lý luật sư phải tuân  thủ và nếu vi phạm sẽ phải chịu các hình thức xử lý theo các chế tài  đã được luật hóa.
Tuy nhiên, trong các quan hệ nêu trên, vẫn còn có những trường hợp, tình huống nảy sinh trong thực tiễn giao tiếp không nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật mà thuộc phạm trù đạo đức và ứng xử nghề nghiệp phải được điều chỉnh bằng các quy định đạo đức tương ứng. Đó là các quy định về căn cứ, chuẩn mực đã được xác định trong bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Các quy định này cũng hàm chứa các nghĩa vụ đạo đức mang tính chất cấm đoán hay bắt buộc luật sư phải tuân thủ hoặc các quy phạm mang tính chất khuyến khích luật sư áp dụng trong quá trình hành nghề cũng như trong lối sống, giao tiếp khi tham gia các quan hệ xã hội khác.
2. Vị trí, vai trò của quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư
Nghề luật sư là một nghề có truyền thống cao quý, gắn liền với số phận pháp lý của con người. Thông qua hoạt động của mình, luật sư thực hiện chức năng xã hội cao cả : Bảo vệ công lý, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,văn minh”.
Cũng như sông có nguồn, cây có gốc, nhà có nền, đạo đức nghề nghiệp có ý nghĩa là nguồn, là gốc, là nền tảng cơ bản của nghề luật sư. Không có đạo đức nghề nghiệp, nghề luật sư không thể tồn tại, phát triển. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân và tự chịu trách nhiệm cá nhân về uy tín nghề nghiệp của mình, với mục tiêu phụng sự công lý, tôn trọng và dựa trên pháp luật thì trước hết phải xuất phát từ một nền tảng đạo đức. Nếu không xuất phát từ nền tảng này thì luật sư khó có thể có ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật khi hành nghề.
Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư có giá trị là các chuẩn mực đạo đức của giới luật sư, tạo cơ sở để luật sư tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong sinh hoạt và hành nghề; là thước đo giúp luật sư giữ gìn phẩm chất, uy tín của mỗi cá nhân; từ đó khiêm tốn học hỏi, tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng hành nghề, góp phần nâng cao uy tín nghề nghiệp của giới luật sư trong xã hội. Đây cũng chính là một văn bản mang tính quy phạm nội bộ thể hiện rõ nét nhất cơ chế quản lý theo phương thức “tự quản kết hợp với quản lý nhà nước” của Liên đoàn luật sư Việt Nam.
3. Quan điểm tư tưởng và yêu cầu của việc xây dựng bộ quy tắc
Việc xây dựng bộ quy tắc phải thể hiện quan điểm tư tưởng và các yêu cầu sau đây
3.1.Trong thời đại hòa nhập với khu vực và thế giới, bộ Quy tắc phải phù hợp với thông lệ quốc tế về nghề luật sư;
3.2.Phạm trù đạo đức nghề nghiệp luật sư rất rộng, để tạo cơ sở cho việc quản lý và tự giác thực hiện của từng luật sư, bộ quy tắc phải cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức và hành vi ứng xử nghề nghiệp luật sư;
3.3. Nội dung bộ Quy tắc phải phù hợp với trình độ phát triển của nghề luật sư Việt Nam, trên nền tảng thể chế chính trị -  xã hội, hệ thống pháp luật, đạo đức và văn hóa của đất nước Việt nam;
3.4.Phát huy truyền thống tốt đẹp về đạo đức con người của dân tộc Việt Nam.
 Việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện  bộ Quy tắc là một công việc thường xuyên, lâu dài trong quá trình phát triển của nghề luật sư Việt Nam.
4. Xác định phạm vi và các tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp
Khái niệm đạo đức bao giờ cũng được thể hiện trong mối quan hệ giữa người với người. Đạo đức nghề nghiệp luật sư chính là tổng hợp các mối quan hệ giữa luật sư với các chủ thể có liên quan trong hoạt động nghề nghiệp và các mối quan hệ xã hội khác khi luật sư tham gia trong sinh hoạt xã hội. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư bao gồm các quy phạm mang tính chất tùy nghi để luật sư có thể lựa chọn trong ứng xử hoặc mang tính chất cấm đoán, bắt buộc luật sư .
 Quy tắc có những quy tắc chung mang tính chất là những nghĩa vụ đạo đức cơ bản của luật sư và các quy tắc cụ thể điều chỉnh hành vi của luật sư khi tham gia các nhóm quan hệ xã hội trong hành nghề gồm : quan hệ với khách hàng; quan hệ với đồng nghiệp; quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước khác. Việc điều chỉnh về mặt đạo đức các nhóm quan hệ này chính là những yếu tố cấu thành nội dung cơ bản của Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư Việt Nam.
Dựa trên cơ sở đặc thù nghề nghiệp luật sư, bộ quy tắc xác định các tiêu chuẩn sau đây :
            Tiêu chuẩn chung về mặt đạo đức nghề luất sư.
            Các tiêu chuẩn đạo đức trong quan hệ với khách hàng.
            Các tiêu chuẩn đạo đức trong quan hệ với đồng nghiệp luật sư.
            Các tiêu chuẩn đạo đức trong quan hệ với cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội.
            Các tiêu chuẩn về kỷ luật luật sư.

5. Yêu cầu chung về đạo đức nghề nghiệp luật sư.
Gồm có 4 nguyên tắc cơ bản
5.1. Luật sư phải giữ gìn phẩm giá và uy tín nghề nghiệp
5.2.Luật sư cần độc lập, trung thực và khách quan
5.3.Luật sư cần có văn hoá ứng xử trong hành nghề và lối sống
5.4.Nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý của luật sư          
II. Nội dung giá trị đạo đức của luật sư.
 1.  Đạo đức của luật sư trước hết phải thể hiện tính trung thực và hợp tác.
        Đạo đức luật sư là phải trung thực, trung thực trong lối sống, trung thực với khách hàng, trung thực và hợp tác với đồng nghiệp. Một trong những biểu hiện của việc trung thực với khách hàng, đó là: khi nhận việc, luật sư phải thông báo cho khách hàng biết rõ về quyền và nghĩa vụ của mình trong việc dịch vụ pháp lý cho khách hàng và phải có trách nhiệm thực hiện tốt nhất nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của khách hàng. Thiết nghĩ, niềm tin của khách hàng chỉ có thể được xây dựng và củng cố trên cơ sở sự trung thực của người luật sư và ngược lại. Chỉ khi người luật sư trung thực khi giao kết hợp đồng cung cấp dịch vụ pháp lý đối với khách hàng thì khách hàng mới tin tưởng và trao đổi tất cả mọi vấn đề với luật sư, dựa trên cơ sở đó, người luật sư mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý.
       Trong một chừng mực nào đó, đạo đức nghề nghiệp của người luật sư và khách hàng được thể hiện thông qua sự hợp tác một cách thiện chí. Trong quá trình cung cấp dịch vụ pháp lý, người luật sư khi phát hiện có những vấn đề mới phát sinh cần phải thông báo cho khách hàng, chỉ có như vậy thì khách hàng mới tin tưởng và thông báo những tình tiết mới cho luật sư. Đạo đức luật sư không cho phép người luật sư được đơn phương từ chối công việc mà mình đã nhận với khách hàng, nếu không được khách hàng đồng ý hoặc không có lý do xác đáng.
Đây là yêu cầu rất quan trọng nở vì mối quan hệ với khách hàng chính là lửa thử vàng đối với cá nhân luật sư, uy tín lương tâm và trách nhiệm của nghề luật sư.Sự tiêu cực hay tích cực của luật sư đều xuất phát từ quan hệ này và chi phối các hành vi ứng xử khác trong tổng hoà các mối quan hệ của luật sư.Gía trị đạo đức này liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư đối với khách hàng.Đó là tận tâm thực hiện hết khả năng và trách nhiệm đối với khách hàng trong khuôn khổ pháp luật cho phép và phạm trù đạo đức nghề nghiệp .
 2. Độc lập trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng và phù hợp với chuyên môn khả năng là đạo đức của luật sư .
Không ai hiểu mình bằng chính mình và vậy trong quá trình quan hệ với khách hàng để giao kết việc cung cấp dịch vụ pháp lý đòi hỏi người luật sư chỉ nhận những công việc phù hợp với chuyên môn , khả năng của mình .Tuyệt đối không chạy theo lợi ích vật chất mà vượt quá khả năng của mình.Một khi luật sư nhận việc mà biết chắc rằng công việc đó vượt quá khả năng của mình thì đương nhiên không mang lại kết quả tốt cho khách hàng thậm chí bế tắc trong công việc .Kết quả là không chỉ ảnh hưởng tới uy tín của không chỉ người luật sư đó mà quan trọng hơn là gián tiếp làm giảm niềm tin của khách hàng với luật sư nói chung.
Một luật sư muốn hết lòng với công việc, thì người luật sư đó phải giữ được tính độc lập trong công việc của mình. Trong trường hợp này luật sư không bị chi phối hoặc lệ thuộc vào ý kiến khác làm ảnh hưởng tới xây dựng quan điểm , phương án bào chữa và quyền lợi khác của khách hàng .Luật sư phải tôn trọng HĐXS  và  đại diện VKS, có thái độ ứng xử đúng mực khi thực hiện quyền xét hỏi người làm chứng  và những người tham gia tố tụng khác có quyền lợi đối lập với khách hàng.Tính độc lập của luật sư trong việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng được thể hiện ba phương diện sau đây:
  2.1.Độc lập khỏi quyền lực
        Nếu luật sư không giữ được độc lập, chịu ảnh hưởng hoặc phục tùng quyền lực thì không thể bảo vệ đầy đủ quyền lợi cho khách hàng. (VD: Chủ tịch UBND …ký một quyết định hành chính, làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, trong khi đó, người luật sư lại e ngại hoặc phục tùng quyền lực của ông chủ tịch kia, thì đương nhiên không thể bảo vệ đầy đủ quyền lợi cho người dân được). Trong trường hợp khác, người luật sư có ý thức , thái độ “trọng quan, coi thường dân” thì quyết không thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân tốt được. Một luật sư mà bị ảnh hưởng bởi quyền lực hoặc phục tùng quyền lợi, th́ không thể có tiếng nói khách quan để bảo vệ công lý, không bảo vệ được công lý có nghĩa là không bảo vệ được quyền lợi tốt nhất cho khách hàng.
2.2.Độc lập khỏi thân chủ (khách hàng)
        Khách hàng nói chung luôn có khuynh hướng đòi hỏi luật sư chúng ta phải bảo vệ quyền lợi của họ bằng mọi cách, thậm chí là phải tạo dựng chứng cứ, vi phạm pháp luật. Thế nhưng, người luật sư ngoài trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho khách hàng, luật sư chúng ta còn có nghĩa vụ phụng sự công lý, công bằng xã hội, vì thế, luật sư chỉ có thể đáp ứng những yêu cầu của khách hàng – khi những yêu cầu đó là hợp pháp, chính đáng, phù hợp với đạo đức xã hội. Điều này cho thấy, không phải bất kỳ yêu cầu gì của khách hàng đều có thể được luật sư đáp ứng.
Khi khách hàng yêu cầu cung cấp chứng cứ giả mạo hoặc yêu cầu thẩm vấn các nhân chứng mà biết rõ những lời khai của nhân chứng đó không đúng sự thật, thì luật sư chúng ta phải thuyết phục khách hàng từ bỏ những yêu cầu không đúng nêu trên. Trong trường hợp luật sư đã tư vấn, thuyết phục hoặc can gián mà khách hàng vẫn không nghe thì luật sư được quyền đơn phương chấm dứt dịch vụ pháp lý , luật sư thông báo cho khách hàng trong một thời hạn hợp lý để khách hàng có thể tìm kiếm luật sư khác đồng thời giải quyết nhanh chóng các vấn đề liên quan đến việc chấm dứt dịch vụ pháp lý đã đảm nhận. 
 2.3.Độc lập khỏi quyền lợi của chính mình .
Luật sư phải có trách nhiệm tân tâm để bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp cho khách hàng và không thể đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của khách hàng, hay bòn rút của khách hàng.
Luật sư độc lập trong hoạt động hành nghề cũng không có nghĩa là tự mình tách ra và coi mình là tuyệt đối.Luật sư dành sự quan tâm, tôn trọng các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng thì cũng sẽ  nhận được sự tôn trọng lại.Luật sư phải thể hiện cho các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng thấy được ngoài việc bảo vệ quyền lợi cho thân chủ , luật sư còn có mục đích khác là bảo vệ trật tự xã hội và công bằng của pháp luật. Có như vậy luật sư sẽ đảm bảo tính độc lập trong hành nghề mà vẫn giữ được sự tôn trọng từ các cơ quan tố tụng và cán bộ tố tụng.
3 . Giữ bí mật.
Khi cung cấp  dịch vụ pháp lý cho khách hàng, luật sư phải có nghĩa vụ giữ bí mật nói chung, trong đó có bí mật của khách hàng. Giữ bí mật của khách hàng là một trong những giá trị cốt lõi của đạo đức nghề nghiệp luật sư. Luật sư phải giữ bí mật về nội dung tranh luận,về những thư từ liên lạc với khách hàng của mình cũng như các thông tin mà luật sư có khi trao đổi với luật sư đối phương.Bí mật này bao gồm những thông tin được thể hiện dưới nhiều hình thức (thư từ, bản sao, thông tin điện tử).
                  Những bí mật của khách hàng mà luật sư có được trong quá trình cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng cần phải được tôn trọng. Luật sư không được công khai bí mật của khách hàng cũng như sử dụng bí mật của khách hàng vào bất kỳ một mục đích nào khác mà không có sự đồng ý của khách hàng.
        Nếu luật sư không giữ được bí mật của khách hàng sẽ dẫn đến việc làm mất đi sự tin cậy của khách hàng đối với luật sư, làm cho khách hàng không còn tin tưởng luật sư, rồi từ đó không trao đổi, trình bày để thổ lộ với luật sư về mọi tình tiết liên quan đến vụ việc bao gồm cả những tình tiết bất lợi. Vì thế, không thể bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho khách hàng. Tuy nhiên, luật pháp cũng quy định trong một số trường hợp thì nghĩa vụ giữ bí mật của luật sư sẽ được gỡ bỏ bởi yêu cầu vì lợi ích chung cao hơn hoặc ngăn chặn một thảm họa chẳng hạn.  
        Trong cung cấp dịch vụ pháp lý, luật sư không được đòi hỏi khách hàng bất kỳ khoản lợi ích gì ngoài thù lao đã thỏa thuận và cũng không được móc ngoặc với đồng nghiệp đang làm luật sư cho khách hàng khác có quyền lợi đối lập với khách hàng của mình để cùng nhau mưu cầu lợi ích cá nhân trên lợi ích của khách hàng.
4. Nghĩa vụ thực hiện trợ lý giúp đỡ của luật sư.
Nghĩa vụ cao cả của luật sư là tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đồng thời, khi thực hiện yêu cầu trợ giúp pháp lý này luật sư cần tận tâm, tích cực như đối với các vụ việc có thù lao.
Chúng ta đều nhận thấy rằng xã hội luôn tồn tại sự phát triển không đồng đều cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Chẳng hạn như những người nghèo, người già đơn côi, người chưa thành niên, người tàn tật, những nhóm người mà quyền lợi của họ dễ bị xâm phạm và một điều trớ trêu là những người ở vào vị thế thấp kém này lại là đối tượng thường bị ức hiếp, bị đối xử bất công, bị hành xử một cách trái pháp luật. Do vậy, họ rất cần sự giúp đỡ, bênh vực của người khác – đó cũng là trách nhiệm của xã hội. Điều ấy phải đến từ sự trợ giúp của luật sư.
Ngay từ thời kỳ cổ đại, xã hội tôn vinh những người dám đứng ra bênh vực, trợ giúp các đối tượng bị ức hiếp được xem là các “hiệp sỹ”. Sự trợ giúp của luật sư trong những trường hợp này là hết sức cần thiết, đồng thời đó phải là sự sự giúp hoàn toàn vô tư, không vụ lợi. Ngày nay, xã hội loài người đã được hưởng thành quả của nhiều nền văn minh, giá trị đạo đức nhân loại đó không thể bị xoá nhoà mà thậm chí còn phải được vun đắp và phát triển ngày càng phổ biến và hiệu quả hơn. Vì thế, hoạt động trợ giúp của luật sư đối với những đối tượng này không chỉ là bổn phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của nghề nghiệp luật sư.
        Tóm lại, đặc thù của nghề luật sư đòi hỏi luật sư ngoài các phẩm chất chung là Chân-Thiện-Mỹ, còn phải là người có khối óc thông minh, tấm lòng trong sáng, dũng cảm, biết lấy pháp luật, lợi ích của con người và đạo đức xã hội làm cơ sở cho hoạt động của mình, điều ấy mới xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội. Đạo đức nghề luật sư bao gồm những nguyên tắc ứng xử mà luật sư phải tuân thủ khi hành nghề, người luật sư cần biết giữ gìn phẩm giá và uy tín nghề nghiệp, độc lập, trung thực và khách quan trong quá trình hành nghề, giữ được văn hoá ứng xử trong hành nghề và lối sống đồng thời thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý một cách tận
5.Luật sư phải giữ gìn phẩm giá và uy tín nghề nghiệp.
 Luật sư luôn giữ gìn phẩm giá và uy tín nghề nghiệp; không ngừng trau dồi đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn để hoàn thành tốt chức năng nghề nghiệp của luật sư, tôn vinh nghề nghiệp luật sư.
Luật sư cần hành nghề với cái đức và cái tâm của mình. Phẩm giá người luật sư chẳng khác ngoài sự tôn trọng và tự trọng đối với nghề nghiệp của mình, phải hiểu được cái thiên chức cao quý của nghề - người bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế. Phẩm giá đó thiết nghĩ đến từ chính sự cương trực, như biểu tượng của sự công lý trong xã hội, dù khó khăn, áp lực vẫn không chùn bước.Phải dũng cảm và có bản lĩnh để vượt qua trở ngại, thách thức gặp phải trong qua trình hành nghề.Đó là một yêu cầu tự thân vận động nhằm chuẩn bị tâm thế cho mình khi đối đầu với những tình huống “ xung đột “ xảy ra trong quá trình tìm ra lẽ phải.Luật sư như những hiệp sỹ trên trận tuyến bảo vệ chân lư mà ở đó đối phương có nhiều thủ đoạn và tìm mọi cách bẻ cong cán cân công lý, nếu không có lòng dũng cảm và bản lĩnh hiệp sỹ ấy của người luật sư không hoàn thành sứ mạng cao cả của mình là những chiến sỹ tiên phong trên mặt trận bảo vệ công lý. Đó là điều mà mỗi luật sư của chúng ta phải có.
Phẩm giá và uy tín của luật sư còn thể hiện ở trình độ hiểu biết và khả năng vận dụng pháp luật trong quá trình hành nghề của mình. Yêu cầu của hoạt động này là hướng dẫn cho đương sự hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật để biết cách xử sự tháo gỡ vướng mắc của họ phù hợp với pháp lý và đạo lý. Hoạt động của luật sư là sự chỉ dẫn cái đúng, cái sai,việc gì được làm, việc gì không được làm, việc gì nên làm. Luật sư là người hoạt động khoa học pháp lý ở vị trí người hướng dẫn pháp luật và đạo lý cho người khác, luôn luôn lấy việc bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải và công bằng xã hội làm mục tiêu cao quý. Đó chính là nền tảng đạo đức nghề nghiệp luật sư.
Cuối cùng phẩm giá của luật sư thể hiện lòng nhân ái và nhân đạo cao cả.Nhân ái và nhân đạo là truyền thống ngàn xưa của dân tộc ta, nó thể hiện sự thiện cảm, bao dung và vị tha của con người Việt Nam.Do đặc thù nghề nghiệp, luật sư thường xuyên tiếp cận với những nỗi đau, cái ác và điều xấu trong xã hội , ở đó đức tính nhân ái và ḷng nhân đạo của con người được bộc lộ, người luật sư phải cảm nhận nỗi đau đó như nỗi đau của mình phải biết dung thứ nỗi lầm  cho người khác khi họ nhận ra điều đó , đó là những đức tính cao quý cần phải có của người luật sư.
6. Luật sư cần có văn hoá ứng xử trong hành nghề và lối sống
        Luật sư ứng xử đúng mực, có văn hoá trong hành nghề và trong lối sống để luôn tạo được sự tin cậy và tôn trọng của xã hội đối với luật sư và nghề luật sư.
Văn hoá có thể được hiểu là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử; là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần; là tri thức, là biểu hiện của văn minh nhân loại. Do vậy, văn hóa ứng xử của luật sư sẽ thể hiện trong cách hành xử của luật sư đối với khách hàng, đối với những người tiến hành tố tụng, trong cách hành xử đối với những người tham gia tố tụng và ngay cả đối với những luật sư đồng nghiệp của mình.
        Cách hành xử ấy đòi hỏi luật sư phải có thái độ lịch sự, tôn trọng, phải thể hiện thiện chí hợp tác cùng nhau giải quyết vụ án một cách hợp lý và hợp tình. Tuy nhiên, điều đó không phải lúc nào và luật sư nào trong số chúng ta đều có thể làm được. Văn hoá đó thể hiện ở chính những lời nói, những hành xử của luật sư – cách hành xử có văn hóa, phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của cuộc sống sẽ tạo nên sự tôn trọng của chính những người tham gia tố tụng và của chính cả xã hội đối với họ.
Không dừng ở đấy, đạo đức nghề luật sư chúng ta không cho phép xúc phạm hay hạ thấp uy tín của đồng nghiệp, không được dùng thủ đoạn đối với đồng nghiệp để giành lợi thế cho mình trong hành nghề, cũng như thông đồng với nhau để mưu cầu lợi ích cá nhân bất chính. Luật sư phải đối xử với nhau một cách có văn hóa.
7. Luật sư phải phụng sự công lý,  có trách nhiệm và tận tuỵ với nghề.
Nghề luật sư là nghề đem lại sự công bằng cho mọi người niềm tin vào pháp luật của nhà nước , bảo vệ công lý góp phần xây dựng nhà nước dấn chủ và công minh.Nhóm này bao gồm việc trung thành với Tổ Quốc,với lợi ích xã hội, lợi ích Quốc Gia  dân tộc đó là nguyên tắc tối thượng  của luật sư khi hành nghề cũng như mọi hoạt động khác chỉ khi nào người Luật sư biến lợi ích Quốc Gia, dân tộc trở thành tình cảm cá nhân mình và thực hiện nó trong thực tiễn hành động thì khi đó mới có thể nói là luật sư chân chính
Tuyệt đối tuân thủ pháp luật, là một nguyên tắc bắt buộc với Luật sư khi hành nghề.Ngoài chức năng điều chỉnh xã hội, pháp luật còn là những chuẩn mực cao nhất của đạo đức do đó tuân thủ Pháp luật là một yêu cầu tất yếu trong quá trình hành nghề.Mặt khác luật sư là người am hiểu Pháp luật hơn ai hết, là người có tư duy pháp lý sâu sắc do đó tuân thủ pháp luật là một yêu cầu tự giác của quá trình rèn luyện đạo đức nghề luật.
Lương tâm, trách nhiệm là những đức tính luôn bổ sung cho nhau trong quá trình hành nghề luật sư, những đức tính đó cần được đề cao bởi lẽ trong quá trình hành nghề nếu không xây dựng được lòng trung thực, lương tâm trách nhiệm thành ý thức tự giác thì người luật sư do động cơ vụ lợi họ dễ dàng lừa dối khách hàng, lừa dối cơ quan công quyền để mưu cầu lợi ích chính đáng của bản thân .
8 . Luật sư phải  tôn trọng sự lựa chọn của khách hàng
 Khi khách hàng đã lựa chọn luật sư nào thì chứng tỏ người luật sư đã nhận được sự tín nhiệm và tin cậy của khách hàng , thân chủ của họ đặt niềm tin và hy vọng của mình vào đó.Vì thế  Luật sư không được tự ý giao việc của mình đã đảm nhận  cho người  khác làm thay mà không có sự đồng ý của khách hàng.Nói cách khác chỉ có khách hàng mới có quyền thay đổi chuyển dịch  người cung cấp dịch vụ pháp lý cho họ mà thôi.Như thế sẽ làm giảm uy tín của luật sư và làm mất đi niềm tin mà thân chủ đã đặt vào họ .Khi luật sư không làm tốt nhiệm vụ của mình và không mang lại kết quả thì khách hàng có quyền lựa chọn luật sư khác khi đó người luật sư phải tôn trọng sự lựa chọn của khách hàng.
Sau khi Pháp lệnh luật sư và đặc biệt là Luật Luật sư 2006 được ban hành, đội ngũ luật sư đã có sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Sự phát triển, thay đổi của đội ngũ luật sư một phần do những quy định đổi mới của Luật Luật sư về các tiêu chí như tiêu chuẩn luật sư, điều kiện hành nghề luật sư, quy trình trở thành luật sư, các quy định về tập sự, gia nhập Đoàn Luật sư... Theo thống kê của Liên đoàn Luật sư cho thấy, hiện cả nước có gần 5.800 luật sư và hơn 2.000 luật sư tập sự. Từ sau khi pháp lệnh hành nghề luật sư có hiệu lực (năm 2001) đến nay, số lượng luật sư đã tăng 250%.Tuy nhiên, số lượng luật sư hiện có so với dân số còn rất thấp. Tỷ lệ luật sư nước ta hiện nay trung bình là 1 luật sư/17.000 người dân, trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan là 1/1526, Singapore là 1/1.000, Mỹ là 1/250.Mặt khác, số lượng luật sư phát triển chưa cân đối giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, trung du. Luật sư chủ yếu tập trung ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
Nhưng vấn đề quan trọng chính là giá trị đạo đức của luật sư , một số Luật sư vi phạm đạo đức nghề nghiệp cần được phải khắc phục để đội ngũ luật sư thực sự trở thành người thầy thuốc chữa bệnh cho những người cần được giúp đỡ.Bài tiểu luận của nhóm chúng em xin đề cập tới một vài giá trị đạo đức trong hoạt động hành nghề của Luật sư.

CHƯƠNG III. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT SƯ
I. Sự cần thiết phải ban hành những quy định chung về đạo đức nghề luật:
1.Luật sư là một nghề đang được xã hội quan tâm:                  
 Đặc biệt là trong điều kiện kinh tế thị trường bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Luật sư được hiểu như một nghề dựa trên dựa trên sự am hiểu pháp luật và áp dụng pháp luật], họ gánh vác sứ mệnh bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của khách hàng nhưng đồng thời cũng có trách nhiệm tôn trọng tính tối cao của pháp luật, bảo đảm pháp chế. Nghề luật sư được điều chỉnh và kiểm soát rất chặt chẽ bằng các quy định pháp luật. Nhưng vẫn chưa đủ, ngoài các quy định pháp luật, nghề luật sư còn đặt trong những khuôn mẫu chuẩn mực đạo đức nhất định mà xã hội trao cho họ.
Với thiên chức của nghề, người luật sư đòi hỏi cần phải nhận thức và ứng xử một cách có đạo đức trong xã hội, về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, tuân thủ những giá trị chuẩn mực của cuộc sống đã đem lại. Khi đề cập đến đạo đức của nghề luật sư là chúng ta đề cập đến sự mệnh mà người luật sư phải thực hiện; là nói đến phẩm chất, thanh danh của họ; là kỹ năng hành nghề và cuối cùng là những chuẩn mực ứng xử của luật sư trong khi hành nghề. Nói ngắn gọn, đạo đức nghề luật sư bao gồm những nguyên tắc ứng xử mà luật sư phải tuân thủ khi hành nghề.
       2.Giúp cho các luật sư hiểu được một cách tổng quát, vị trí, vai trò của Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư (gọi tắt là Quy tắc); Nâng cao ý thức tự giác của luật sư trong việc chấp hành các nghĩa vụ đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hành nghề và trong giao tiếp xã hội; Giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của nghề luật sư, góp phần xây dựng và củng cố sự tin cậy trong xã hội đối với nghề luật sư ở Việt Nam

3. Luật  Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng nghề luật  là một nghề có truyền thống cao quý gắn liền với số phận con người, đạo đức nghề nghiệp có ý nghĩa là nền tảng cơ bản của nghề luật sư. Không có đạo đức nghề nghiệp, nghề luật sư không thể tồn tại, phát triển. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư có giá trị là các chuẩn mực đạo đức của giới luật sư, tạo cơ sở để luật sư tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong sinh hoạt hành nghề, là thước đo giúp luật sư giữ gìn phẩm chất, uy tín của mỗi cá nhân và uy tín của cả đội ngũ luật sư và nghề luật sư. Vì những lẽ đó, luật sư khi hành nghề và trong cuộc sống  sinh hoạt phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, giữ gìn phẩm chất tư cách đạo đức, tôn thờ công lý vì nhân dân và tổ quốc để phụng sự.
Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư phải đi kèm với những chế tài cụ thể về các vi phạm.
Nghề luật sư từ khi được nhà nước thừa nhận chính thức bằng Pháp lệnh Luật sư 1987 thì đạo đức nghề nghiệp đã được đặt ra, bàn luận không ngớt. Năm 2002, Bộ Tư pháp đã ban hành quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư. Và giờ đây, với trách nhiệm tự quản của Liên đoàn Luật sư, việc xây dựng quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp càng trở nên quan trọng, bức thiết.

II.NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT

Nhận thấy được tầm quan trọng đó, ngày 05/8/2002 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 356b/2002/QĐ-BTP về việc ban hành Quy tắc về mẫu đạo đức nghề nghiệp luật sư, cụ thể:



1.Yêu cầu chung về đạo đức nghề nghiệp luật sư.
1.1.Giữ gìn phẩm giá và uy tín nghề nghiệp.
Đối với luật sư việc giữ gìn phẩm giá và uy tín là bổn phận bắt buộc trong việc hoàn thành chức năng nghề nghiệp luật sư.
1.2. Độc lập, trung thực, khách quan.
Khi hoạt động nghề nghiệp của mình, luật sư phải bảo đảm tính độc lập, trung thực và tận tụy, không vì lợi ích vật chất, tinh thần hoặc vì áp lực khác mà làm sai lệch sự thật, trái pháp luật và trái đạo đức xã hội.
1.3.  Văn hoá ứng xử trong hành nghề và lối sống.
Luật sư là người trí thức hoạt động trong lĩnh vực khoa học pháp lý, do vậy khi hành nghề cũng như trong lối sống phải ứng xử có văn hoá tạo được sự tôn trọng của xã hội.
1.4. Thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý.
Thực hiện trợ giúp miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách là nghĩa vụ cao cả của luật sư. Khi làm trợ giúp phải tận tâm đối với công việc và không được đòi hỏi bất kỳ lợi ích nào từ người mình có trách nhiệm trợ giúp.
2.Quan hệ với khách hàng.
2.1. Nhận và thực hiện vụ việc.
2.1.1.Phải tôn trọng sự lựa chọn luật sư của khách hàng, nếu không được khách hàng đồng ý, không được tự giao việc mình đã nhận cho người khác làm thay.
2.1.2.Luật sư chỉ nhận việc theo khả năng của mình, không chạy theo lợi ích vật chất, làm qua loa tắc trách đối với công việc của khách hàng.
2.1.3.Khi nhận việc, luật sư phải thông báo cho khách hàng biết rõ về quyền và nghĩa vụ của mình trong việc dịch vụ pháp lý cho khách hàng và phải có trách nhiệm thực hiện tốt nhất nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của khách hàng.
2.1.4.Quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình, nếu có phát hiện hoặc phát sinh những vấn đề mới cần thông báo cho khách hàng biết.
2.1.5. Những việc luật sư đã nhận với khách hàng không được đơn phương từ chối, nếu không được khách hành đồng ý hoặc không có lý do xác đáng.
2.2.Ứng xử khi có mâu thuẫn về quyền lợi giữa các khách hàng.
Trong cùng một việc, luật sư không cung cấp dịch vụ pháp lý cho những người mà quyền lợi của họ đối lập nhau.
2.3.Từ chối cung cấp dịch vụ pháp lý.
Trường hợp yêu cầu của khách hàng không có căn cứ hoặc biết rõ yêu cầu đó là vi phạm pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì luật sư có quyền từ chối việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho họ.
2.4.  Ứng xử khi chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng.
Trường hợp chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý khi hợp đồng chưa hoàn tất, luật sư phải thông báo cho khách hàng biết rõ lý do và thanh toán sòng phẳng.
2.5.  Bí mật thông tin.
Trong khi thực hiện nghề nghiệp, luật sư không được tiết lộ những điều liên quan đến vụ việc mà không được khách hàng đồng ý.
2.6.  Những việc luật sư không được làm.
2.6.1. Trong khi hành nghề, luật sư không cộng tác kinh doanh cùng khách hàng, không vay, mượn tiền, tài sản của khách hàng để sinh lợi cho mình.
2.6.2. Không soạn thảo hợp đồng để khách hàng tặng, cho mình hoặc người thân thích của mình tài sản của họ.
2.6.3, Không nhận tiền hoặc lợi ích khác từ người khác để gây thiệt hại cho khách hàng của mình.
2.6.4, Không thuê người khác môi giới dẫn khách hàng cho mình.
2.6.5, Không tự mình hoặc cho người đến gia đình bị can, bị cáo để vận động họ thuê mình làm bào chữa.
2.6.7. Không hứa hẹn trước kết quả việc tham gia tố tụng nhằm mục đích lôi kéo khách hàng hoặc tăng thù lao.
2.6.7. Không đòi hỏi khách hàng bất kỳ khoản lợi ích gì ngoài thù lao đã thoả thuận.
3.Quan hệ của luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan nhà nước khác.
3.1.  Ứng xử trong tiếp xúc và quan hệ.
Trong khi quan hệ, tiếp xúc với các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan Nhà nước khác, luật sư có thái độ lịch sự, tôn trọng các cơ quan này.
1.                Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan Nhà nước khác.
3.2.1., Không được móc nối, lôi kéo những người ở các cơ quan này làm việc trái quy định của pháp luật.
3.2.2. Không được cung cấp những thông tin, tài liệu, chứng cứ mà biết rõ không xác thực cho các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan Nhà nước khác.
3.2.3. Không sử dụng những thủ đoạn nhằm kéo dài, gây khó khăn việc giải quyết vụ việc.
3.Quan hệ với đồng nghiệp
4.1.  Tôn trọng và hợp tác với đồng nghiệp.
Trong quan hệ, cộng tác với đồng nghiệp, luật sư cần tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần xây dựng cùng nhau bảo vệ thanh danh uy tín của nghề luật sư.
4.2.  Đối với đồng nghiệp, luật sư không được:
4.2.1. Không xúc phạm hoặc dùng thủ đoạn hạ thấp uy tín của đồng nghiệp để đề cao mình, tranh khách hàng về mình.
4.2.2. Trong hoạt động nghề nghiệp, không dùng thủ đoạn cạnh tranh thiếu lành mạnh để lôi kéo khách hàng.
4.2.3. Không móc ngoặc với đồng nghiệp đang làm luật sư cho khách hàng khác có quyền lợi đối lập với khách hàng của mình để cùng nhau mưu cầu lợi ích cá nhân trên lợi ích của khách hàng.
        Nghề luật là nghề mang lại sự công bằng cho những bất công, vi phạm trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…trong cuộc sống. Chính vì phạm vi rộng lớn và tầm quan trọng của nó mà nghề luật đòi hỏi cần phải có những quy định,quy tắc điều chỉnh quá trình thực hiện nó. Nhà nước ta đã đưa ra nhiều quy tắc, quy định nhằm điều chỉnh hoạt động hành nghề của những chủ thể tham gia nghề luật, tạo định hướng đúng đắn cho người tham gia luật thực hiện đúng phẩm chất đạo đức nghề nghiệp đảm bảo cho Hiến pháp, luật của Nhà nước thi hành hiệu quả nhất.

CHƯƠNG IV : BIỂU HIỆN, NGUYÊN NHÂN GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA NGHỀ LUẬT SƯ VÀ NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT.
I. Biểu hiện tích cực đạo đức của nghề luật và nguyên nhân.
1.Biểu hiện tích cực trong giá trị đạo đức nghề Luật.
Hiện nay, dù cho có sự thay đổi của thời đại nhưng  hầu hết đội ngũ luật sư của chúng ta vẫn giữ cho mình được những phẩm chất cao quý mà một người được gọi là luật sư cần phải có như : tôn trọng pháp luật, trung thực khách quan, giữ bí mật, công bằng, làm việc có trách nhiệm.
Các luật sư hiện nay đa phần đều thực hiện đúng theo những quy tắc đạo đức trên. Họ sống bằng nghề chứ không phải bằng đồng tiền phi pháp do vi phạm một trong số các quy tắc đạo đức trên mà đạt được.
Họ coi trọng nghề của mình, sống và cống hiến cho nghề của mình, nghề luật sư là một nghề đáng được coi trọng trong xã hội. Các luật sư sống rất có quy tắc, họ đấu tranh cho lẽ phải không phải vì lợi ích của riêng họ, cũng không chỉ vì lợi ích của thân chủ mình mà họ còn sống theo công lý, theo những chuẩn mực đạo đức mà một con người cần phải có nhưng không phải ai cũng làm đúng theo những chuẩn mực đạo đức đó.
Nghề luật sư bênh vực cho lẽ phải cho cái thiện, họ đánh bại cái ác, họ sống và làm theo pháp luật, họ đem lại sự công bằng cho xã hội, họ bảo vệ những người nghèo khổ trong xã hội để cho họ thấy được trong xã hội luôn luôn có sự công bằng giành cho tất cả mọi người, mọi người sống trong xã hội ai cũng được đối xử như ai, không ai hơn ai. Pháp luật là cán cân công lý đứng ra phân biệt đúng sai. Nhưng công lý thật sự nằm trong lòng người.
        Nghề luật sư có tấm lòng nhân hậu, họ bảo vệ những gì mà pháp luật và lòng người cho là đúng. Họ không vì lợi ích của riêng ai cả mà họ sống, cống hiến vì lợi ích chung của toàn thể xã hội, của toàn thể cộng đồng. Chúng ta có thể lấy dẫn chứng một số luật sư tiêu biểu của Việt Nam:
            Nữ luật sư Ngô Bá Thành (1931 - 2004)
Tên thật là Phạm Thị Thanh Vân (Ngô Bá Thành là tên người chồng quá cố của bà) nguyên là Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật Quốc hội các khoá 6, 7, 8 và 10, nguyên Phó Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam.
            Nguyễn Mạnh Tường

Nguyễn Mạnh Tường (1909 – 13 tháng 6 năm 1997) là một luật sư và giáo sư Việt Nam.
            Vũ Đình Hòe Vũ Đình Hòe (sinh năm 1912) là luật gia, nhà báo, Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục trong Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông nguyên quán làng Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, là hậu duệ đời thứ tư của Tiến sĩ Vũ Tông Phan (1800-1841).Bên cạnh đó, các luật sư cũng đã tham gia tích cực vào hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng thuộc diện chính sách. Việc tham gia vào hoạt động này không chỉ thực hiện một cam kết mang tính chất nghĩa vụ của luật sư đối với xã hội mà còn góp phần tạo lập sự công bằng cho các đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý. Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia trợ giúp pháp lý cho hàng chục nghìn vụ việc, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người nghèo, người thuộc diện chính sách. Có thể nói, mặc dù còn những hạn chế, nhưng hoạt động của luật sư thời gian qua đã đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu giúp đỡ pháp lý của công dân và tổ chức, đóng góp đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác

2. Nguyên nhân của những biểu hiên tích cực
Nhiều người dân vô tội được minh oan, pháp luật được thực thi nghiêm minh, công lý và chính nghĩa được bảo vệ là nhờ những người luật sư có tài và có tâm,có đạo đức và lương tâm nghề nghiệp. Những luật sư này gắn bó với nghề, cống hiến cho con đường bảo vệ lẽ phải là vì những nguyên nhân như sau:

Thứ nhất, do họ ý thức được sự quan trọng của nghề nghiệp của mình. Họ coi công việc bênh vực kẻ yếu, chống lại bất công là một sứ mệnh cao cả, họ thấu hiểu những oan ức mà người vô tội phải chịu, từ đó nỗ lực hết mình trong công việc.
Thứ hai, những luật sư này giữ được tấm lòng nhân hậu, yêu thương con người và không bị cám dỗ bởi những vật chất tầm thường. Họ không vì tiền mà bán rẻ lương tâm, bán rẻ đạo đức nghề nghiệp.
Thứ ba, vì nghề luật sư là một nghề được xã hội coi trọng và tôn vinh
II.Những tiêu cực trong đạo đức nghề luật sư và nguyên nhân
1.Những biểu hiện tiêu cực trong đạo đức nghề luật sư
Đa số các luật sư hiện nay đều thực hiện đúng theo các quy tắc đạo đức mà nghề luật sư phải thực hiện. bên cạnh đó còn có một số ít những người làm nghề luật sư nhưng lại mưu lợi dựa trên danh nghĩa luật sư. Những người này sống vì lợi ích cá nhân, mưu lợi dựa trên những việc làm bất chính của mình để đạt được mục đích riêng. Họ xem những thân chủ của mình như là những miếng mồi ngon béo tốt…chứ thực tâm họ không hề đứng trên danh nghĩa của một nhà luật sư : muốn phục vụ lợi ích chung, muốn bênh vực lẽ phải, sống có đạo đức…đối với họ lợi ích riêng được đặt lên hàng đầu, họ có thể kiếm lợi dựa trên lợi ích của người khác.
Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho biết hiện nay trong các vi phạm của Luật sư có 80 tới 90 % thuộc về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Đây là một con số thật lớn cho thấy được thực trạng đội ngũ luật sư đang dần bị suy thoái về đạo đức và càng ngày gia tăng.Nhưng đa số các Đoàn Luật sư không xử lý các vi phạm này.Nhiều trường hợp vi phạm chỉ dừng ở mức độ khiển trách, nhắc nhở chưa đủ sức răn đe thậm chí một bộ phận luật sư có phần chủ quan, thiếu nghiêm túc trong hành nghề làm ảnh hưởng tới uy tín và giảm hình ảnh mang tính biểu tượng nghĩa hiệp trong mắt quần chúng.Chỉ có Đoàn Luật sư Hà Nội và TP Hồ Chí Minh xử lý nhiều  còn các đoàn khác thì bỏ qua “ Kể từ khi Luật luât sư có hiệu lực đến đầu tháng 7 , đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh đã khiển trách một người , cảnh cáo 6, tạm đình chỉ tư cách thành viên 6 tháng với 1 cán bộ, xoá tên 6 người .
Một số thiếu tôn trọng đồng nghiệp , thực hiện các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh để giành khách hàng về cho mình.
.Một số luật sư còn có thái độ ứng xử nghề nghiệp chưa đúng mực trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và luật sư đồng nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy tín của đội ngũ luật sư. Hơn nữa, luật sư nước ta còn yếu về trình độ ngoại ngữ cũng như kiến thức về pháp luật quốc tế. Điều này dẫn đến nguy cơ chúng ta thua ngay trên “sân nhà” trong các vụ tranh chấp liên quan đến việc mâu thuẫn giữa quyền lợi của Nhà nước Việt Nam, các doanh nghiệp, công dân Việt Nam với nước ngoài.
Luật sư với nạn chạy án.
Lợi dụng danh nghĩa luật sư để thực hiện hành vi chống phá nhà nước.
Luật sư vi phạm chuản mực ứng xử
Trong đội ngũ luật sư hiện chưa thực sự tận tâm, chưa thực sự dũng cảm đấu tranh , bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng .Họ coi nghĩa vụ của mình chỉ là một loại dịch vụ để kiếm sống .
Để chứng minh cho điều đó, sau đây là một vài ví dụ cho thấy sự tha hoá, biến chất của một số luật sư :
Cù Huy Hà Vũ (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1957; nguyên quán xã Ân Phú, huyện Quang, tỉnh Tĩnh) là một tiến luật học, thạc văn chương, họa , và là nhân viên  Kiện Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Ông là một nhà luật học rất am hiểu pháp luật vậy mà vì không đạt được mục tiêu cá nhân mà ông dần đi vào con đường tội lỗi. Chắc hẳn mọi người không thể không nhớ đến những tội danh của ông  đó là :
Nhiều tài liệu được lưu giữ trong máy tính của ông .Ông đưa ra những thông tin , tài liệu thất thiệt, bịa đặt, xuyên tạc sự lãnh đạo của nhà nước ,Chính phủ gây hoang mang trong  nhân dân, kích động hô hào chống nhà nước,vu khống xúc phạm danh dự các đồng chí lãnh đạo nhà nước, chính quyền.
Có quan hệ với các đối tượng có tư tưởng chống đối nhà nước , các thế lực thù địch chống Việt Nam ở nước ngoài, ông đã trả lời hơn 20 cuộc phỏng vấn của đài báo, thế lực phản động chống Việt Nam ở nước ngoài có nội dung chống nhà nước và chuyển các tài liệu do ông Vũ làm ra để chúng sử dụng chống phá nhà nước Việt Nam.
 Ông đi kiện những vấn đề văn hoá không phải vì văn hoá, vì đất nước .Đó chỉ là sự chuẩn bị cho sự tính toán cá nhân là làm Bộ trưởng bộ Văn hoá Thông tin và  hơn thế nữa ông tiếp tục ứng cử đại biểu Quốc Hội ,như thế văn hoá dân tộc hay di sản của đất nước  hay tinh hoa văn hoá nhân loại đã được ông biến thành những con bài cho cuộc chơi vì những tính toán cá nhân.Con đường Vũ đi chỉ là con đường của tham vọng về quyền lực và danh vọng. Những cố gắng hết mình của Vũ dường như chỉ nhằm mục đích tạo nên sức ép dư luận để tìm một chỗ đứng trong bộ máy. Nhưng khi không đạt được mục đích đó, Vũ trở thành kẻ chống phá chính bộ máy mà mình đã mơ ước được đứng vào.
            Lê Bảo Quốc là một luật sư “nổi tiếng” nhưng không phải về tài hùng biện mà về khả năng “chạy dịch vụ” với chi phí tiền tỷ. 3 điều nổi tiếng của ông “luật sư dịch vụ”: thế-tiền-tình!
Lê Bảo Quốc nổi tiếng trong giới “thầy cãi” về nhiều lẽ. Thứ nhất là về gia thế và mối quan hệ. Quốc có 4 người em (ruột và rể) là cán bộ của ngành kiểm sát, tòa án và quản lý thị trường của TPHCM. Trong lúc công an đang khám xét nhà Quốc thì người em là kiểm sát viên của một viện kiểm sát nội thành đã đến với lý do “nghe báo tin ở nhà có cướp”(!?).
Chuyện Quốc quan hệ với nhiều lãnh đạo cao cấp của các cơ quan bảo vệ pháp luật không rõ thân thiết đến cỡ nào, nhưng giới luật sư ở TPHCM vẫn kể nhau nghe về việc có đến 2 ông phó viện trưởng của Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao dự và cắt băng khánh thành Công ty Tư vấn pháp luật của Quốc ở đường Hồ Văn Huê, quận Phú Nhuận.
Ngay cả việc chỉ 13 ngày sau khi một phó chánh án TAND tối cao ký quyết định tạm hoãn thi hành án (số 15 ngày 18/5/2005), Quốc đã có trong tay văn bản này - trong khi cả bên nguyên và bên bị đều chưa biết gì - để đưa ra dọa Trần Thị Ngọc cũng là một dấu hỏi mà đằng sau phải kèm thêm nhiều dấu chấm than.
Thứ hai là về những phi vụ tai tiếng. Báo chí đã từng thông tin về vụ Quốc bị Công ty Cho thuê tài chính II (thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam) kiện trong vụ thuê xe nhưng không trả tiền và sau đó là “hô biến” mất cả hai chiếc; vụ Quốc đang bị kiện tại Công an quận Tân Bình vì nhận “chạy” thoát án chung thân với giá 20.000 USD .
Từ 2 ví dụ điển hình trên ta có thể thấy đâu đó vẫn còn tồn tại một số ít những luật sư không biết nâng cao uy tín nghề nghiệp của mình mà còn làm cho thanh danh của nghề mình đi xuống. nhưng xã hội không bao giờ chấp nhận những hành đông đó,trong quá trình phát triển xã hội sẽ đào thải những cái xấu, giữ lại những gì tốt đẹp.
2. Nguyên nhân của những biểu hiện tiêu cực
Bên cạnh những luật sư yêu nghề, giữ gìn đạo đức và lương tâm nghề nghiệp thì một bộ phận luật sư khác lại đang hành động ngược lại với những giá trị chuẩn mực xã hội và những giá trị đạo đức nghề nghiệp vì những nguyên nhân như sau:
Thứ nhất, những luật sư này không  đủ bản lĩnh chiến thắng được những cám dỗ vật chất, họ vì lợi ích cá nhân mà đánh mất lương tâm nghề nghiệp, vì để thỏa mãn ham muốn vật chất của mình mà quên đi rằng hành động của họ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của những người vô tội.
Thứ hai, pháp luật Việt Nam chưa có những chế tài xử phạt thích đáng  đối với những luật sư có hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp
Thứ ba do sự quản lý lỏng lẻo , chưa chặt chẽ của các tổ chức luật sư, hội luật sư.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ CAO ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT
1. Cần xây dựng tổ chức luật sư toàn quốc và cơ chế giám sát hoạt động của luật sư.
          Đảng ta đã từng chỉ ra rằng “thể chế hoá nguyên tắc dân chủ trong hoạt động của các cơ quan dân cử bảo đảm để nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động xây dựng pháp luật, giám sát bằng nhiều hình thức việc thi hành luật của các cơ quan, công chức nhà nước. Hoàn thiện pháp luật về giám sát tối cao của Quốc hội, cơ chế bảo vệ luật và Hiến pháp”; “hoàn thiện pháp luật về khiếu nại tố cáo, bảo đảm mọi quyết định pháp luật và hành vi hành chính trái pháp luật đều được phát hiện và có thể bị khởi kiện trước toà án”; “hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra”; “hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”; "hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát kiểm tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước…”.Thấy rõ được vai trò của ngành luật nói riêng và tư pháp nói chung cần phải xây dựng cơ chế giám sát hoạt động của ngành luật bao gồm:
          +  Phương thức giám sát ( phương pháp và cách thức giám sát ) .
          +Yếu tố pháp lý (hệ thống quy phạm pháp luật chứa đựng nguyên lý tổ chức vận hành của toàn bộ cơ chế giám sát hoạt động của ngành tư pháp).Yếu tố này có tính chất là “ môi trường pháp lý” ràng buộc các chủ  thể giám sát hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
          + Mối quan hệ tương tác giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát.Đó là các chuỗi hành vi giám sát hợp pháp của chủ thể giám sát.Đó là các nghĩa vụ pháp lý , tính chịu hậu quả của chủ thể  bị giám sát.Trong đó có việc thực hiện trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm hành chính trách nhiệm chính trị, trách nhiệm kỷ luật nhà nước , trách nhiệm bồi thường dân sự.
2. Cần xây dựng một bộ qui tắc đạo đức nghề nghiệp mang tính áp dụng toàn quốc.
Bộ quy tắc này chính là nền tảng chuẩn mực đạo đức , hành vi ứng xử để các nhà hành luật nhìn vào đó để có cách ứng xử sao cho phù hợp .Và bộ quy tắc này cần được xây dựng thống nhất trong toàn quốc đảm bảo tính chính xác,đúng đắn và khách quan để nó thực sự trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động của người hành nghề.Bộ quy tắc sẽ giúp chúng ta định hướng và tìm ra cách thức giải quyết phù hợp.Những giá trị mà bộ quy tắc đề cập sẽ được phát huy thực sự khi mỗi nhà luật biết kết hợp cả ý nghĩa và tinh thần của các nguyên tắc vào trong hành động.
 3. Cần đẩy mạnh công tác phòng và chống tiêu cực trong ngành tư pháp.
Mỗi nhà làm việc trong ngành tư pháp cần nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp của mình để cho công lý được thực hiện đảm bảo công bằng , khách quan đem lại sự bình đẳng cho người dân.Cần xây dựng các chế tài kèm theo các quy định chặt chẽ về quy chế làm việc, đạo đức nghề,…đảm bảo trong sạch trong ngành tư pháp.Xử lý nghiêm minh và chặt chẽ đối với các trường hợp vi phạm  để giáo dục cũng như răn đe những người có ý định vi phạm.
4. Đẩy mạnh việc tuyên truyền pháp luật đến với người dân.
Nghề luật sư là nghề nhằm mang lại sự công bằng cho xã hội cho mọi người dân khi những vi phạm pháp luật xảy ra. Chính vì vậy việc tuyên truyền pháp luật đến người dân là biện pháp tích cực và chủ động nhất giúp ngăn chặn những vi phạm pháp luật xảy ra. Đây cũng được xem như là biện pháp phòng ngừa mọi hành vi trái pháp luật khi mọi người dân đã hiểu luật và nắm được luật người dân sẽ tuân thủ pháp luật,đảm bảo pháp luật được thi hành nghiêm túc.
        Việc tuyên truyền pháp luật đến người dân cũng là biện pháp giúp người dân hiểu được hơn nữa về nghề luật về những nhiệm vụ, quyền hạn mà nghề luật sư được phép làm và không được phép làm từ đó có cách quan hệ, ứng xử đúng luật. Không để tình trạng lạm dụng chức quyền, hối lộ trong quá trình xử án xảy ra tạo điều kiện cho việc bào chữa, tư vấn luật…của luật sư diễn ra hiệu quả nhất và đảm bảo thi hành đúng pháp luật của Nhà nước.


5. Cần nâng cao chất lượng đào tạo về đội ngũ luật sư hiên nay.
Hiện nay trong điều kiện mới về kinh tế xã hội theo xu hướng mới của thế giới, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao việc nâng cao đội ngũ luật sư là rất cần thiết.
        Việc nâng cao chất lượng luật sư không chỉ về năng lực, khả năng và trình độ làm việc. Mà đồng thời với nó chính là nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của người luật sư. Bác Hồ đã nói :”Người có tài mà không có đức chỉ là người vô dụng”. Vì vậy việc nâng cao tài và đức cho người luật sư phát triển một cách toàn diện là một trong những giải pháp tích cực giúp nâng cao chất lượng độ ngũ luật sư hiện nay.
        Nghề luật là một nghề đặc biệt so với những nghề khác, nó đòi hỏi uy tín, sự tin tưởng và sự tôn trọng của mọi người trong xã hội. Do vậy chỉ một sai xót nhỏ trong quá trình ứng xử hành nghề cũng mang lại những  hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến danh dự của nhiều người.
        Do tầm quan trọng của nghề đó chính là cán cân cân bằng những vi phạm của xã hội, góp phần vào việc đảm bảo pháp luật được thực thi trong xã hội một cách nghiêm túc nhất. Do vậy việc nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư trở nên càng bức thiết và quan trọng hơn lúc nào hết.
        Nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư cần được Nhà nước quan tâm hơn nữa bằng những hoạt động cụ thể như việc mở những trường đào tạo luật sư chuyện nghiệp; ban hành những quy chế, quy tắc đạo đức cho đội ngũ luật sư…từ đó đào tạo đội ngũ luật sư vừa có đủ đức và tài phục vụ cho sự nghiệp đảm bảo công bằng xã hội.



KẾT LUẬN
Nghề luật sư là một nghề cao quý trong xã hội được xã hội chú trọng và quan tâm. Bởi lẽ nó đem lại sự công bằng , minh  bạch , bình đẳng cho mọi người ,nó giúp mọi người có niềm tin vào pháp luật .Hiện nay có rất nhiều luật sư có trách nhiệm với nghề, có lương tâm nghề nghiệp và hết lòng với nghề, luôn luôn đem lại niềm tin, sự hạnh phúc cho những người có hoàn cảnh bị ức hiếp , bị chèn ép.Tuy nhiên còn có những “con sâu bỏ rầu nồi canh “ có những luật sý chýa thực sự tận tình với nghề, chưa tuân thủ quy tắc nghề nghiệp luật sư mà còn có những hành vi vi phạm pháp luật, ký luật lợi dụng công việc mà làm giàu bản thân, lấy danh nghĩa luật sư của mình để ức hiêp.Pháp luật Việt Nam cần phải có những quy tắc chặt chẽ hơn nữa , có những chế tài xử lý thích đáng những trường hợp vi phạm để cho ngành luật sư nói riêng ngành tư pháp nói chung thực sự là nghề cao quý.















                 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật sư của Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghiã Việt Nam số 65/2006/QH-11 ngày 29 tháng 6 năm 2006.
- www.Kỹ năng. Net.
- Luật Viêt Nam.vn.
- Quyết định số 365b/2002/QĐ-BTP về ban hành quy tắc về mẫu đạo đức nghề nghiệp luật sư.
- Nghề luật những nghĩ suy-Ths Nguyễn Bá Bình.