Bài soạn ôn thi tốt nghiệp
môn quản lý nhà nước về kinh tế
Chương I
Câu 1: Mô tả đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Nêu ví dụ về những nhược điểm của kinh tế thị trường ở Việt Nam . Nhà nước ta cần tập trung giải quyết những vấn đề gì để khắc phục nhược điểm của kinh tế thị trường?
I. Kinh tế thị trường là là một mô hình kinh tế vận động, phát triển, dựa trên cơ sở các quy luật của thị trường, trong đó quan hệ hàng hoá - tiền tệ trở thành phổ biến và bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành khách quan của nền kinh tế, ở đó các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường phát huy tác dụng, trước hết, là quy luật giá trị, quy luật này đòi hỏi việc sản xuất hàng hoá phải trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết và trao đổi phải bình đẳng, ngang giá. Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh phải tuân thủ quy luật này mới có thể tồn tại và phát triển. Thứ hai là quy luật cung cầu, quy luật này biểu hiện quan hệ giữa cung và cầu thông qua giá cả, nó tác động trực tiếp đến giá cả và phương thức sản xuất, tiêu dùng của xã hội. Thứ ba là quy luật cạnh tranh, quy luật này đòi hỏi hàng hoá sản xuất ra phải có chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn, thái độ phục vụ văn minh hơn để nâng cao khả năng cạnh tranh so với các hàng hoá khác cùng loại.
Một nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường phải có 6 đặc trưng chủ yếu sau:
1. Thứ nhất, là quá trình lưu thông vật chất từ khâu này đến khâu khác trong hệ thống các khâu của quá trình sản xuất và từ sản xuất đến tiêu dùng đều được thực hiện chủ yếu bằng phương thức mua - bán. Sở dĩ có sự luân chuyển vật chất trong nền kinh tế là do có sự phân công chuyên môn hoá trong sản xuất sản phẩm xã hội ngày càng cao, bên cạnh đó, còn do có sự dư thừa sản phẩm ở doanh nghiệp này, ngành này nhưng lại thiếu sản phẩm ở doanh nghiệp khác, ngành khác và ngược lại. Một nền kinh tế được gọi là nền kinh tế thị trường khi tổng lượng mua bán vượt quá nữa tổng lượng vật chất của xã hội.
2. Thứ hai, người trao đổi hàng hoá phải có quyền tự do nhất định khi tham gia trao đổi trên thị trường, được thể hiện trên 3 mặt sau: tự do lựa chọn nội dung trao đổi, tự do lựa chọn đối tác trao đổi và tự do thoả thuận giá cả trao đổi theo cách thuận mua vừa bán.
3. Thứ ba, hoạt động mua bán được diễn ra 1 cách thường xuyên, ổn định trên cơ sở 1 kết cấu hạ tầng tối thiểu đủ để việc mua bán diễn ra thuận lợi, an toàn.
4. Thứ tư, các đối tác tham gia trong nền kinh tế thị trường đều theo đuổi lợi ích của mình, đó chính là lợi nhuận, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế nhưng không được xâm phạm ảnh hưởng đến lợi ích của người khác và của cộng đồng.
5. Thứ năm, kinh tế thị trường luôn gắn với cạnh tranh, hay nói cách khác, cạnh tranh là linh hồn của nền kinh tế thị trường, đó là động lực thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có lợi cho người tiêu dùng.
6. Thứ sáu, sự vận động của các quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường (quy luật giá trị, qui luật cạnh tranh, qui luật cung-cầu...) dẫn dắt hành vi, thái độ ứng xử của các chủ thể tham gia thị trường.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất trong từng quốc gia và sự hội nhập kinh tế mang tính toàn cầu đã tạo điều kiện và khả năng to lớn để nền kinh tế thị trường phát triển đạt đến trình độ cao - kinh tế thị trường hiện đại. Nền kinh tế thị trường hiện đại là nền kinh tế có đầy đủ các đặc trưng của 1 nền kinh tế thị trường và đồng thời có các đặc trưng sau: (4)
+ Một là, có sự thống nhất về mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị - xã hội và nhân văn.
+ Hai là, có sự quản lý của nhà nước, do nhu cầu nhà nước không chỉ là người đại diện cho lợi ích của giai cấp cầm quyền mà còn do nhu cầu của chính những người tham gia Điều đó đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.
+ Ba là, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đang diễn ra với qui mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên 1 chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là 1 bộ phận gắn bó hữu cơ với các bộ phận khác.
+ Bốn là, hệ thống thị trường đồng bộ, thống nhất, ngày càng hiện đại, gắn với thị trường khu vực và thế giới, bao gồm các thị trường bộ phận đầu ra (hàng hoá, dịch vụ) và thị trường đầu vào (vốn, lao động, công nghệ thông tin, bất động sản...).
II. Những ưu điểm, nhược điểm của nền kinh tế thị trường Việt Nam :
1. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường, đó là: (6)
+ Năng động và thích ứng cao với đòi hỏi của thị trường, đáp ứng được các nhu cầu có thể thanh toán được của xã hội một cách tự động mà không một bộ máy hoạch định nào có thể thay thế được;
+ Huy động tối đa mọi tiềm năng của xã hội;
+ Tạo ra động lực mạnh mẽ để thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao và thông qua phá sản tạo ra cơ chế đào thải các doanh nghiệp yếu kém;
+ Phản ứng nhanh nhạy trước các thay đổi trong nhu cầu xã hội và các điều kiện kinh tế trong nước và quốc tế;
+ Buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên học hỏi lẫn nhau, hạn chế các sai lầm trong kinh doanh diễn ra trong thời gian dài và trên qui mô lớn;
+ Tạo động lực thúc đẩy phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ - kỹ thuật làm cho nền kinh tế năng động và đạt hiệu quả cao.
2. Nhược điểm của nền kinh tế thị trường: (5)
Nền kinh tế thị trường tuy có nhiều ưu điểm nhưng nó không phải luôn hoàn hảo, mà bản thân nó chứa đầy những mặt trái, những nhược điểm rất cơ bản. Và cũng chính vì những khuyết tật này mà nó làm cho kinh tế thị trường chứa đựng cả những yếu tố đi ngược chiều với mục tiêu mà chúng ta đang hướng tới. Những khuyết tật, mặt trái của kinh tế thị trường được thể hiện ở các nội dung sau:
+ Động cơ lợi nhuận dễ đẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật như kinh doanh lừa đảo, làm hàng giả; tài nguyên thiên nhiên và môi trường bị tàn phá, huỷ hoại 1 cách nghiêm trọng và lan rông; tham nhũng, hối lộ, tệ nạn xã hội, thương mại hoá các giá trị đạo đức và đời sống tinh thần;
+ Kinh tế thị trường tạo ra sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, dẫn đến phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng.
+ Do theo đuổi lợi ích cá nhân tối đa, nên lợi ích chung của xã hội không được chăm lo, nhiều trường hợp các nhà kinh doanh có thể đưa vào sản xuất những sản phẩm đem lại tác hại cho xã hội và nhân loại như hàng giả, thuốc tây giả, ma tuý, văn hoá phẩm đồi truỵ...; để khắc phục tình trạng này cần phải có sự can thiệp tích cực của nhà nước.
+ Sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường dẫn đến độc quyền, do vậy sẽ hạn chế nghiêm trọng các ưu điểm của kinh tế thị trường. Sự cạnh tranh không tổ chức dẫn đến mất cân đối vĩ mô, gây ra những hậu quả tiêu cực về xã hội nhưng tình trạng thất nghiệp, lạm phát, phát triển kiểu chu kỳ.
+ Kinh tế thị trường làm sản sinh và dẫn đến các cuộc chiến tranh kinh tế.
3. Nhà nước cần tập trung giải quyết những vấn đề sau để khắc phục những nhược điểm của nền kinh tế thị trường: (7)
+ Nhà nước cần tập trung vào việc xây dựng 1 hệ thống thị trường đồng bộ gồm những thị trường bộ phận như: thị trường vốn, thị trường lao động...
+ Các chủ thể kinh tế phải được tự do, bình đẳng trong hoạt động kinh tế.
+ Nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật.
+ Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để định hướng cho sự vận động và phát triển của nền kinh tế.
+ Nhà nước phải kết hợp nhiều hình thức phân phối theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường, đó là phân phối theo lao động, phân phối theo tài sản và vốn, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội để giảm khoảng cách giàu nghèo.
+ Phải chú trọng vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng, bởi nếu cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ làm cho giá thành sản phẩm cao, hiệu quả mua bán kém, do vậy không có khả năng cạnh tranh trên thị trường, sẽ khó thu hút đầu tư kinh tế từ nước ngoài.
+ Tăng cường công tác kiểm tra giám sát để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chống nạn tham nhũng, lãng phí cạnh tranh không lành mạnh, hàng lậu, hàng giả...).
Câu 2: Nói rõ đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự thể hiện của yếu tố nhà nước trong các đặc trưng đó như thế nào?
I. Kinh tế thị trường là là một mô hình kinh tế vận động, phát triển, dựa trên cơ sở các quy luật của thị trường, trong đó quan hệ hàng hoá - tiền tệ trở thành phổ biến và bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành khách quan của nền kinh tế, ở đó các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường phát huy tác dụng, trước hết, là quy luật giá trị, quy luật này đòi hỏi việc sản xuất hàng hoá phải trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết và trao đổi phải bình đẳng, ngang giá. Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh phải tuân thủ quy luật này mới có thể tồn tại và phát triển. Thứ hai là quy luật cung cầu, quy luật này biểu hiện quan hệ giữa cung và cầu thông qua giá cả, nó tác động trực tiếp đến giá cả và phương thức sản xuất, tiêu dùng của xã hội. Thứ ba là quy luật cạnh tranh, quy luật này đòi hỏi hàng hoá sản xuất ra phải có chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn, thái độ phục vụ văn minh hơn để nâng cao khả năng cạnh tranh so với các hàng hoá khác cùng loại.
Một nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường phải có 6 đặc trưng chủ yếu sau:
'
1. Thứ nhất, là quá trình lưu thông vật chất từ khâu này đến khâu khác trong hệ thống các khâu của quá trình sản xuất và từ sản xuất đến tiêu dùng đều được thực hiện chủ yếu bằng phương thức mua - bán. Sở dĩ có sự luân chuyển vật chất trong nền kinh tế là do có sự phân công chuyên môn hoá trong sản xuất sản phẩm xã hội ngày càng cao, bên cạnh đó, còn do có sự dư thừa sản phẩm ở doanh nghiệp này, ngành này nhưng lại thiếu sản phẩm ở doanh nghiệp khác, ngành khác và ngược lại. Một nền kinh tế được gọi là nền kinh tế thị trường khi tổng lượng mua bán vượt quá nữa tổng lượng vật chất của xã hội.
2. Thứ hai, người trao đổi hàng hoá phải có quyền tự do nhất định khi tham gia trao đổi trên thị trường, được thể hiện trên 3 mặt sau: tự do lựa chọn nội dung trao đổi, tự do lựa chọn đối tác trao đổi và tự do thoả thuận giá cả trao đổi theo cách thuận mua vừa bán.
3. Thứ ba, hoạt động mua bán được diễn ra 1 cách thường xuyên, ổn định trên cơ sở 1 kết cấu hạ tầng tối thiểu đủ để việc mua bán diễn ra thuận lợi, an toàn.
4. Thứ tư, các đối tác tham gia trong nền kinh tế thị trường đều theo đuổi lợi ích của mình, đó chính là lợi nhuận, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế nhưng không được xâm phạm ảnh hưởng đến lợi ích của người khác và của cộng đồng.
5. Thứ năm, kinh tế thị trường luôn gắn với cạnh tranh, hay nói cách khác, cạnh tranh là linh hồn của nền kinh tế thị trường, đó là động lực thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có lợi cho người tiêu dùng.
6. Thứ sáu, sự vận động của các quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường (quy luật giá trị, qui luật cạnh tranh, qui luật cung-cầu...) dẫn dắt hành vi, thái độ ứng xử của các chủ thể tham gia thị trường.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất trong từng quốc gia và sự hội nhập kinh tế mang tính toàn cầu đã tạo điều kiện và khả năng to lớn để nền kinh tế thị trường phát triển đạt đến trình độ cao - kinh tế thị trường hiện đại. Nền kinh tế thị trường hiện đại là nền kinh tế có đầy đủ các đặc trưng của 1 nền kinh tế thị trường và đồng thời có các đặc trưng sau:
+ Một là, có sự thống nhất về mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị - xã hội và nhân văn.
+ Hai là, có sự quản lý của nhà nước, do nhu cầu nhà nước không chỉ là người đại diện cho lợi ích của giai cấp cầm quyền mà còn do nhu cầu của chính những người tham gia Điều đó đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.
+ Ba là, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đang diễn ra với qui mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên 1 chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là 1 bộ phận gắn bó hữu cơ với các bộ phận khác.
+ Bốn là, hệ thống thị trường đồng bộ, thống nhất, ngày càng hiện đại, gắn với thị trường khu vực và thế giới, bao gồm các thị trường bộ phận đầu ra (hàng hoá, dịch vụ) và thị trường đầu vào (vốn, lao động, công nghệ thông tin, bất động sản...).
II. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Đại hội X của Đảng đã khẳng định quan điểm nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là:
+ Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
+ Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
+ Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng với các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
+ Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ những quan điểm trên, chúng ta thấy rằng giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất là cơ sở để nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân (hiện nay là 725 USD/đầu người/năm phấn đấu đến năm 2010 là 1.000 USD/đầu người/năm) và giảm khoảng cách giàu nghèo, rút ngắn mức độ phân hoá giàu nghèo, đồng thời là điều kiện để thúc đẩy kinh tế phát triển, với tốc độ tăng trưởng (GDP) bền vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý, cân đối với nguồn lực đất nước. Bên cạnh phát triển kinh tế, phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát huy dân chủ, tạo môi trường tự do kinh doanh theo pháp luật và trong khuôn khổ của pháp luật, đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia trên lĩnh vực kinh tế.
Đảng ta khẳng định quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (bao gồm cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) và nhiều loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh. Về cơ chế quản lý, chịu sự điều tiết song hành của các quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế thị trường và chịu sự quản lý ở tầm vĩ mô của nhà nước. Về hình thức phân phối, thực hiện phân phối theo lao động (người lao động được thụ hưởng tương xứng với công sức đóng góp của mình), phân phối theo tỷ lệ tài sản và vốn góp, phân phối thông qua quỹ phúc lợi xã hội.
Phát triển lực lượng sản xuất của nền kinh tế đạt trình độ hiện đại, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đây là tất yếu của mọi quốc gia khi tham gia kinh tế thị trường. Ngay trong bản thân mỗi đơn vị, doanh nghiệp phải thực hiện tổ chức sản xuất 1 cách tiên tiến theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá, liên hợp hoá và bằng việc không ngừng nâng cao trình độ khoa học - công nghệ sản xuất theo hướng cơ khí hóa, điện khí hóa..., đồng thời phải thực hiện xây dựng kết cấu hạ tầng cho từng loại thị trường. Hình thành và phát triển 1 số ngành mũi nhọn, trọng điểm, có tính chất then chốt để tạo ra sự cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới. Xây dựng nền kinh tế mở và hội nhập, mở rộng quan hệ với các quốc gia, các tổ chức trên thế giới ở lĩnh vực xuất nhập khảu hàng hoá, đầu tư vốn, dịch vụ thu ngoại tệ, chuyển giao khoa học công nghệ, đồng thời, cùng với mở cửa, hội nhập, phải xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng, phát huy tối đa nội lực để thu hút ngoại lực, từng bước thực hiện hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
III. Sự thể hiện yếu tố nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước đây, do yêu cầu xây dựng nền kinh tế theo chế độ công hữu, phi hàng hoá và được quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên nhà nước quản lý tuyệt đối toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội, nắm và chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế của đất nước. Với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, nhà nước đã thực hiện được những mục tiêu kinh tế và chính trị xã hội quan trọng, thể hiện được tính ưu việt của CNXH trên nhiều mặt. Tuy nhiên, nền kinh tế theo chế độ công hữu, phi hàng hoá và được quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ cũng bộc lộ nhiều khuyết tật, làm triệt tiêu động lực phát triển, nền kinh tế trì trệ, rơi vào khan hiếm, dẫn tới khủng hoảng kinh tế - xã hội, còn nhà nước thì bao biện, làm thay thị trường và xã hội, dẫn tới bộ máy cồng kềnh, quan liêu, quản lý kém hiệu lực và hiệu quả. Nhà nước đề ra đường lối, chính sách, kế hoạch, nhà nước là chủ sở hữu vốn của mình trong doanh nghiệp, nhà nước lập kế hoạch thực hiện, can thiệp vào mọi khâu trong quá trình thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp, nhà nước là người điều hành trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhà nước quyết định tất cả từ khâu đầu đến khâu cuối của quá trình kinh tế.
Hiện nay, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một quá trình khách quan, hợp quy luật và là một nội dung cơ bản của công cuộc đổi mới ở nước ta. Trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường cũng như khi cơ chế thị trường đã được xây dựng đồng bộ, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước không hề suy giảm mà còn tăng lên. Điều đó, không có nghĩa là nhà nước nắm tất cả, can thiệp vào tất cả mọi hoạt động kinh tế của toàn xã hội, mà trái lại nhà nước chỉ nắm những lĩnh vực, những khâu then chốt, thực hiện những công việc quan trọng nhất mà thị trường và nhân dân không làm được, nhà nước tiến hành kiểm tra, giám sát, định hướng kinh tế cho các thành phần kinh tế trong xã hội, nhà nước chỉ thực hiện quản lý ở tầm vĩ mô.
Câu 3: Ưu nhược điểm của nền kinh tế thị trường. Nhà nước cần tập trung giải quyết những vấn đề gì?
I. Những ưu điểm, nhược điểm của nền kinh tế thị trường:
1. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường, đó là: (6)
+ Năng động và thích ứng cao với đòi hỏi của thị trường, đáp ứng được các nhu cầu có thể thanh toán được của xã hội một cách tự động mà không một bộ máy hoạch định nào có thể thay thế được.
+ Huy động tối đa mọi tiềm năng của xã hội.
+ Tạo ra động lực mạnh mẽ để thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao và thông qua phá sản tạo ra cơ chế đào thải các doanh nghiệp yếu kém.
+ Phản ứng nhanh nhạy trước các thay đổi trong nhu cầu xã hội và các điều kiện kinh tế trong nước và quốc tế.
+ Buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên học hỏi lẫn nhau, hạn chế các sai lầm trong kinh doanh diễn ra trong thời gian dài và trên qui mô lớn.
+ Tạo động lực thúc đẩy phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ - kỹ thuật làm cho nền kinh tế năng động và đạt hiệu quả cao.
2. Nhược điểm của nền kinh tế thị trường: (5)
Nền kinh tế thị trường tuy có nhiều ưu điểm nhưng nó không phải luôn hoàn hảo, mà bản thân nó chứa đầy những mặt trái, những nhược điểm rất cơ bản. Và cũng chính vì những khuyết tật này mà nó làm cho kinh tế thị trường chứa đựng cả những yếu tố đi ngược chiều với mục tiêu mà chúng ta đang hướng tới. Những khuyết tật, mặt trái của kinh tế thị trường được thể hiện ở các nội dung sau:
+ Động cơ lợi nhuận dễ đẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật như kinh doanh lừa đảo, làm hàng giả; tài nguyên thiên nhiên và môi trường bị tàn phá, huỷ hoại 1 cách nghiêm trọng và lan rông; tham nhũng, hối lộ, tệ nạn xã hội, thương mại hoá các giá trị đạo đức và đời sống tinh thần;
+ Kinh tế thị trường tạo ra sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, dẫn đến phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng.
+ Do theo đuổi lợi ích cá nhân tối đa, nên lợi ích chung của xã hội không được chăm lo, nhiều trường hợp các nhà kinh doanh có thể đưa vào sản xuất những sản phẩm đem lại tác hại cho xã hội và nhân loại như hàng giả, thuốc tây giả, ma tuý, văn hoá phẩm đồi truỵ...; để khắc phục tình trạng này cần phải có sự can thiệp tích cực của nhà nước.
+ Sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường dẫn đến độc quyền, do vậy sẽ hạn chế nghiêm trọng các ưu điểm của kinh tế thị trường. Sự cạnh tranh không tổ chức dẫn đến mất cân đối vĩ mô, gây ra những hậu quả tiêu cực về xã hội nhưng tình trạng thất nghiệp, lạm phát, phát triển kiểu chu kỳ.
+ Kinh tế thị trường làm sản sinh và dẫn đến các cuộc chiến tranh kinh tế.
3. Nhà nước cần tập trung giải quyết những vấn đề sau để khắc phục những nhược điểm của nền kinh tế thị trường:
+ Nhà nước phải tạo lập môi trường và điều kiện cho hoạt động kinh doanh, tập trung vào việc xây dựng 1 hệ thống thị trường đồng bộ gồm những thị trường bộ phận như: thị trường vốn, thị trường lao động...
+ Các chủ thể kinh tế phải được tự do, bình đẳng trong hoạt động kinh tế.
+ Nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật.
+ Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để định hướng cho sự vận động và phát triển của nền kinh tế.
+ Nhà nước phải kết hợp nhiều hình thức phân phối theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường, đó là phân phối theo lao động, phân phối theo tài sản và vốn, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội để giảm khoảng cách giàu nghèo.
+ Phải chú trọng vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng, bởi nếu cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ làm cho giá thành sản phẩm cao, hiệu quả mua bán kém, do vậy không có khả năng cạnh tranh trên thị trường, sẽ khó thu hút đầu tư kinh tế từ nước ngoài
+ Tăng cường công tác kiểm tra giám sát để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chống nạn tham nhũng, lãng phí, cạnh tranh không lành mạnh, hàng lậu, hàng giả...).
Câu 4: Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế. Từ thực tế chứng minh vai trò của nhà nước ngày càng quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
I. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế:
Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế bởi các lý do sau:
+ Tính giai cấp trong kinh tế và bản chất giai cấp của nhà nước.
Nhà nước là sản phẩm của xã hội có phân chia và đối kháng giai cấp, nó được giai cấp thống trị về kinh tế sinh ra để bảo vệ quyền lợi kinh tế của giai cấp thống trị đó. Nói cách khác, nhà nước có sứ mạng và nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị về kinh tế.
Tính giai cấp trong kinh tế thể hiện ở vị thế của giai cấp đó đối với tư liệu sản xuất, vị thế trong quản lý sản xuất, cơ sở vật chất, vị thế trong phân chia lợi ích kinh tế. Theo đó, trong nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người làm công, không có tư liệu sản xuất, ở vị trí bị quản lý và bị bóc lột; và giai cấp tư sản, những chủ sở hữu về tư liệu sản xuất, quản lý, phân phối lợi nhuận và bóc lột. Vậy giai cấp chỉ hình thành trong kinh tế và cuộc đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giành 3 vị thế trong kinh tế.
Kết hợp 2 mặt vấn đề, ta thấy trong kinh tế có đấu tranh giai cấp, nhà nước là 1 công cụ của giai cấp. Nhà nước không thể đứng ngoài cuộc đấu tranh giai cấp mà phải tham gia vào mới thể hiện hết vai trò công cụ của mình.
+ Tính mâu thuẫn gay gắt về lợi ích trong lĩnh vực kinh tế:
Trong nền kinh tế thị trường chứa đựng những mâu thuẫn cơ bản, đó là những mâu thuẫn giữa các doanh nhân với nhau, mâu thuẫn giữa chủ với thợ trong các doanh nghiệp có bóc lột lao động và mâu thuẫn giữa giới sản xuất kinh doanh với toàn thể cộng đồng. Những mâu thuẫn cơ bản này có tính phổ biến, thường xuyên vì nó động chạm đến tất cả mọi người không trừ một ai, vì khi tham gia vào kinh doanh, từ doanh nhân đến người lao động, người tiêu dùng đều có va chạm với nhau về kinh tế. Hơn nữa những mâu thuẫn đó còn mang tính căn bản, vì là mâu thuẫn sinh tồn liên quan đến sự sống chết của con người.
Do tính chất của mâu thuẫn như trên việc hoà giải các mâu thuẫn này phải do nhà nước chứ không ai khác, và phải giải quyết triệt để, nếu không sẽ có tác dụng ngược lại, chỉ có nhà nước mới làm được điều đó vì nhà nước có sức mạnh, có những quyền lực đặc biệt, được tạo ra bởi thể chế đặc biệt. Nhà nước cộng hòa dân chủ là sức mạnh của toàn dân, có những quyền mà nhân dân trao cho, chỉ có nhà nước can thiệp vào giải quyết mâu thuẫn thì trật tự kinh tế mới cơ bản được thiết lập.
+ Tính khó khăn phức tạp của sự nghiệp kinh tế:
Hoạt động kinh tế cần nhiều điều kiện chủ quan, đó chính là phải có ý chí làm giàu, muốn làm giàu phải có ý chí, tuy nhiên hoạt động làm giàu còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có sự tin tưởng vào chế độ kinh tế, chính trị, vào tính đúng đắn của sự lựa chọn đầu tư, lựa chọn giải pháp..., những điều này phụ thuộc rất lớn vào nhà nước, vào chế độ xã hội.
Phải có tri thức làm giàu, người làm kinh doanh cần phải có 2 nhóm tri thức cơ bản, đó là tri thức về sản xuất kinh doanh và thông tin toàn diện trong và ngoài nước có liên quan đến việc làm kinh tế. Tri thức về sản xuất kinh doanh bao gồm những kiến thức khoa học kỹ thuật, công nghệ sản xuất có thể học được từ trường lớp, sách vở và thực tiễn. Còn nhóm thứ 2 bao gồm nhiều thông tin như kinh tế kỹ thuật, chính trị, quân sự trong và ngoài nước, giá cả, quy hoạch..., chỉ có nhà nước mới có. Do đó, nếu không có nhà nước chắc chắn các nhà doanh nghiệp không đủ tầm nhìn thấy tương lai.
Phải có phương tiện sản xuất kinh doanh, trước tiên là vốn, nhà doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều nguồn, có khi không nhất thiết phải vay vốn của nhà nước nhưng doanh nhân vẫn cần vay vốn của nhà nước do không tin tưởng các nguồn khác. Ngoài nguồn vốn ra, phải cần có hệ thống kết cấu hạ tầng trong đó sát với người làm kinh tế thị trường, nhất là hệ thống chợ, điều này chỉ có nhà nước mới tạo ra được, chỉ có nhà nước quản lý chợ mới có thể làm cho mọi người yên tâm khi tham gia thị trường. Hoạt động của chợ rất phức tạp, khó bảo vệ, bất an nhất nên các loại chợ đều cần có sự bảo hộ của nhà nước.
Phải có môi trường kinh doanh, đó là môi trường bè bạn và môi trường an toàn cho sản xuất kinh doanh. Trong kinh doanh cần phải có đối tác, để tìm được đối tác như ý ở trong hay ngoài nước, tự thân nhà doanh nghiệp không dể tìm, do vậy nhà nước là 1 chỗ dựa quan trọng cho các nhà doanh nghiệp.
Môi trường an toàn là an toàn cho tính mạng và tài sản của doanh nhân, chỉ có nhà nước mới là người bảo vệ tốt nhất. Hơn nữa môi trường an toàn là môi trường không có chiến tranh, không có tội phạm hình sự, ngăn ngừa được thiên tai hay dự báo để phòng tránh thiên tai. Sự an toàn này trừ nhà nước không ai tạo ra được cho doanh nhân.
+ Sự có mặt của kinh tế nhà nước trong kinh tế quốc dân, đây là lý do trực tiếp nhất khiến nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế nhà nước bao gồm tài nguyên quốc gia, dự trữ quốc gia về tiền, vàng bạc, đá quý và vật tư, kết cấu hạ tầng, toàn bộ vốn nằm trong các doanh nghiệp. Nhà nước cần có kinh tế riêng của mình để thực hiện kích thích hay cưỡng chế kinh tế, nhà nước cần có lực lượng kinh tế làm công cụ quản lý xã hội khi các công cụ khác tỏ ra bất cập trong 1 số trường hợp nhất định. Nhà nước cần có lực lượng kinh tế riêng, cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước để sản xuất và cung ứng những hàng hóa, dịch vụ mà khu vực tư nhân không làm được. Hơn nữa nhà nước cần có thực lực kinh tế để thực hiện chính sách xã hội.
Kinh tế nhà nước là những vật cụ thể phải cần có con người cụ thể đứng ra quản lý, vì nhà nước là 1 phạm trù trừu tượng. Mà khi giao cho những nhóm người cụ thể quản lý sẽ dẫn đến 2 nguy cơ là: công sản có thể bị lợi dụng để mưu lợi tư, bị tham ô lãng phí, người được nhà nước ủy thác quản lý có thể không đủ khả năng làm cho đơn vị của mình thực hiện đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước đặt ra cho kinh tế nhà nước. Xuất phát từ những lý do đó mà nhà nước phải quản lý đối với kinh tế.
II. Chứng minh vai trò của nhà nước ngày càng quan trọng trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Hiện nay, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một quá trình khách quan, hợp quy luật và là một nội dung cơ bản của công cuộc đổi mới ở nước ta. Đây là một quá trình khó khăn và phức tạp vì phải đổi mới cả cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy quản lý và con người, đổi mới tư duy, phong cách, và lối sống cũ đã ăn sâu vào từng con người. Do đó, đổi mới thành công hay không lại phụ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước. Như vậy, trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường cũng như khi cơ chế thị trường đã được xây dựng đồng bộ, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước không hề suy giảm mà còn tăng lên. Điều đó, không có nghĩa là nhà nước nắm tất cả, can thiệp vào tất cả mọi hoạt động kinh tế của toàn xã hội, mà trái lại nhà nước chỉ nắm những lĩnh vực, những khâu then chốt, thực hiện những công việc quan trọng nhất mà thị trường và nhân dân không làm được, biết sử dụng cơ chế thị trường một cách khôn khéo để phục vụ cho mục tiêu quản lý của mình, biết phát huy những mặt tích cực của cơ chế thị trường và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế đó, phát huy động lực của sự phát triển kinh tế, xử lý những bất trắc và tình huống mới nảy sinh, đảm bảo cho cơ chế thị trường ra đời đồng bộ và vận hành thông suốt, thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, vai trò của nhà nước trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường hết sức quan trọng và nặng nề, vừa phải tiến hành đổi mới, cách thức điều hành từ chỗ trước đây vốn quen với cơ chế cũ sang cách thức điều hành, quản lý theo cơ chế mới, nguyên tắc mới nhằm thiết lập mối quan hệ hợp lý giữa nhà nước - thị trường - doanh nghiệp, vừa phải liên tục hoàn thiện phương pháp, công cụ và kỹ thuật điều hành trong điều kiện vừa chuyển đổi, vừa hội nhập, vừa phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước phải thực hiện vai trò là người đại diện cho nhân dân để quản lý nền kinh tế vì lợi ích của đất nước và nhân dân nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Câu 5: Chức năng quản lý kinh tế của nhà nước, những hạn chế trong công tác quản lý kinh tế của nhà nước, của các cơ quan quản lý kinh tế của nhà nước.
I. Chức năng quản lý kinh tế của nhà nước.
1. Chức năng bảo vệ lợi ích giai cấp.
Để bảo vệ lợi ích giai cấp trong quản lý nhà nước về kinh tế, nhà nước trước hết phải thiết lập và bảo vệ chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý tối ưu, xây dựng và bảo vệ chế độ phân phối, hưởng thụ có ưu thế cho giai cấp mà nhà nước là đại biểu.
2. Chức năng điều chỉnh các hành vi sản xuất kinh doanh:
Để điều chỉnh các hành vi sản xuất kinh doanh, trước hết phải điều chỉnh các quan hệ lao động sản xuất, đồng thời điều chỉnh các hành vi phân chia lợi ích.
+ Quan hệ lao động sản xuất: Trong xã hội, thuộc tầm điều chỉnh của Nhà nước có rất nhiều quan hệ, đó là quan hệ quốc gia với quốc tế, quan hệ phân công và hợp tác nội bộ nền kinh tế quốc dân, quan hệ phân công hợp tác theo lãnh thổ nội bộ quốc gia. Để điều chỉnh các quan hệ này, nhà nước phải định hướng phát triển chung cho toàn xã hội thông qua công tác xây dựng đường lối, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, qui định thiết kế chất lượng sản phẩm và dịch vụ, định hướng cụ thể cho các doanh nhân trong việc phát triển sự nghiệp sản xuất kinh doanh của họ. Mục tiêu điều chỉnh của nhà nước là hiệu quả tối đa. Trong chức năng này nhà nước xuất phát từ lợi ích của tất cả mọi doanh nhân, của toàn xã hội.
+ Điều chỉnh các hành vi phân chia lợi ích.
Trong lĩnh vực kinh tế có các quan hệ lợi ích, đó là: quan hệ trao đổi hàng hóa. Nhà nước điều chỉnh quan hệ này nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên tham gia quan hệ; quan hệ phân chia lợi ích trong các công ty; quan hệ tiền công, tiền lương, nhà nước điều chỉnh quan hệ này nhằm giữ cho quan hệ được thực hiện công bằng, văn minh, hợp lý, hợp tình, bảo vệ quyền lợi chính trị của Đảng cầm quyền; quan hệ đối với công quỹ quốc gia.
Để thực hiện chức năng điều chỉnh các hành vi phân chia lợi ích, Nhà nước cần phải xây dựng thể chế kinh doanh, trao đổi hàng hoá để can thiệp vào các quan hệ trao đổi hàng hoá của doanh nhân, xây dựng chế độ tiền công, tiền lương, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội để can thiệp vào các quan hệ thù lao cho người lao động, xây dựng chế độ đóng góp của công dân vào công quỹ quốc gia như các thể chế về thuế, phí, lệ phí và các loại đóng góp có tính chất nghĩa vụ khác.
3. Hỗ trợ doanh nhân lập thân, lập nghiệp trên lĩnh vực kinh tế:
Nhà nước là nhân tố không thể thiếu được đối với mọi công dân làm kinh tế, nhà nước thực hiện chức năng này có ý nghĩa lớn cho sự củng cố nhà nước, tạo nên sự tin tưởng và biết ơn nhà nước trong lòng dân.
Nhà nước có thể hỗ trợ doanh nhân trên các mặt như hỗ trợ công dân ý chí làm giàu; hỗ trợ về tri thức cho công dân lập thân, lập nghiệp về kinh tế; hỗ trợ về phương tiện sản xuất kinh doanh và hỗ trợ doanh nhân về môi trường kinh doanh.
Để hỗ trợ công dân về những mặt trên, Nhà nước phải tiến hành các hoạt động quản lý sau:
- Tuyên truyền giới thiệu giúp cho công dân biết được thế nào là cuộc sống giàu có, đầy đủ, sung sướng để từ đó gây dựng và nuôi chí làm giàu trong nhân dân.
- Xây dựng và ban hành đường lối chính trị, hệ thống pháp luật có tính khoa học và thực tiễn cao, đủ mức để công dân có cơ sở tin tưởng vào sự ổn định chế độ chính trị, pháp luật, xã hội, ở thái độ trước sau như một của nhà nước và cộng đồng đối với người biết làm giàu.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân học tập để có đủ tri thức dựng nghiệp.
- Định hướng cho mọi hoạt động của doanh nhân.
- Cung cấp cho giới doanh nhân các thông tin kinh tế, khoa học và công nghệ, chính trị, quân sự trong nước và quốc tế có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Mở ra các trung tâm hội tụ doanh nhân, các địa bàn xúc tác kinh tế.
- Đầu tư xây dựng hoặc chủ trì việc xây dựng kết cấu hạ tầng cho kinh tế phát triển, xây dựng lực lượng nòng cốt kinh tế.
- Nhà nước bảo vệ tài sản và tính mạng cho doanh nhân, phòng chống tội phạm hình sự, tiến hành các biện pháp phòng chống thiên tai, hạn chế tối đa các rủi ro, tai họa tự nhiên đối với doanh nhân.
4. Bổ sung cho thị trường những hàng hoá, dịch vụ khi cần thiết bằng các phương thức thích hợp. Thực chất của chức năng này nhằm bổ sung cho tính hoàn hảo của kinh tế thị trường. Trong quan hệ hoàn hảo về cung-cầu của kinh tế thị trường mọi nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ của xã hội đều được khu vực tư nhân đáp ứng, từ đó tạo ra lổ hổng về cung, bức xúc về cầu, làm nảy sinh ra vấn đề bổ sung. Như vậy bổ sung này là dùng 1 lực lượng ngoài hệ thống để tăng cường nội bộ khi nội bộ thiếu sót, chỉ có nhà nước là lực lượng tăng cường hữu hiệu và không thể thay thế.
Nhà nước xây dựng các doanh nghiệp nhà nước để trực tiếp cung ứng hàng hóa và dịch vụ cho cộng động bằng phương thức trực tiếp, nhà nước sử dụng phương thức gián tiếp với việc đóng vai trò đại diện tiêu dùng thay mặt toàn xã hội để mua 1 số hàng hóa và dịch vụ của khu vực tư trong và ngoài nước. Mỗi hình thức đều có ưu, nhược điểm riêng, thích ứng với từng lúc, từng nơi, từng loại hàng hóa, dịch vụ (khi nền kinh tế ở giai đoạn khởi phát, khả năng quản lý của nền hành chính quốc gia còn hạn chế- hình thức trực tiếp được trọng dụng; khi năng lực kinh tế của khu vực phát triển lên, khả năng quản lý xã hội của nhà nước vững vàng hơn - phương thức gián tiếp sẽ chiếm ưu thế).
5.Bảo vệ công sản và khai thác công sản như 1 công cụ quản lý:
Công sản là tài sản công, nhà nước là người quản lý và sử dụng, tuy nhiên nhà nước không trực tiếp mà giao ủy quyền trực tiếp quản lý và sử dụng. Nhà nước thực hiện chức năng này nhằm bảo vệ công sản đồng thời khai thác nguồn tài sản công.
Khi giao quyền về quản lý trực tiếp và sử dụng chính người được giao quyền này có thể tham ô, lãng phí đồng thời có các nguy cơ tổn thất tự nhiên. Do vậy công sản cần được bảo vệ. Bên cạnh đó, nhà nước phải là người sử dụng công sản với tính chất như là 1 công cụ quản lý, phải làm cho kinh tế nhà nước thực sự là vũ khí lợi hại của nhà nước trong quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng, quản lý xã hội nói chung.
II. Những hạn chế trong công tác quản lý kinh tế của nhà nước, của các cơ quan quản lý kinh tế của nhà nước.
Từ khi đổi mới đến nay, với chức năng của mình, nhà nước đã kịp thời ban hành và từng bước đưa vào cuộc sống một hệ thống luật pháp khá đầy đủ theo hướng đổi mới, tạo khuôn khổ pháp lý cơ bản cho nền kinh tế vận hành và phát triển với tốc độ cao trong một thời gian dài. Huy động được nguồn lực tài chính khá lớn để chủ động đầu tư phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng cơ bản; chuyển đổi cách thức định hướng, hướng dẫn từ kiểu trực tiếp trước đây sang kiểu gián tiếp: Nhà nước chủ yếu quản lý kinh tế vĩ mô, tăng cường sử dụng các chính sách kinh tế như tài chính, tiền tệ. Thực hiẹn tốt việc điều tiết, đảm bảo các tiêu chí công bằng xã hội trong điều kiện, trình độ phát triển kinh tế còn thấp. Bước đầu làm quen và từng bước đổi mới phương pháp kiểm tra, kiểm soát phù hợp với điều kiện thị trường.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình đổi mới, quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều mặt hạn chế và yếu kém:
+ Thứ nhất, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới, chưa phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường.
+ Thứ hai, hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm.
+ Thứ ba,, quản lý các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, thương mại, phân phối thu nhập, xây dựng cơ bản, đất đai, vốn, tài sản nhà nước chưa tốt và chậm đổi mới.
+ Thứ tư, tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, quan hệ phân công và hiệp tác chưa rõ ràng, còn nhiều vướng mắc, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phân tán cục bộ còn nghiêm trọng; cán bộ và công chức nhà nước còn nhiều hạn chế cả về trình độ, năng lực và phẩm chất, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ.
+ Thứ năm, cải cách hành chính tiến hành chậm, hiệu quả thấp.
Câu 6: Nguyên tắc quản lý của nhà nước về kinh tế. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Nêu ví dụ để minh hoạ.
I. Nguyên tắc quản lý của nhà nước về kinh tế: Có 5 nguyên tắc:
+ Tập trung dân chủ.
+ Kết hợp quản lý nhà nước về kinh tế theo ngành và lãnh thổ.
+ Phân biệt quản lý nhà nước về kinh tế với quản trị kinh doanh.
+ Bảo vệ quyền lợi và quyền làm chủ cho người lao động.
+ Tăng cường pháp chế XHCN trong quản lý nhà nước về kinh tế.
II. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ:
1. Quản lý nhà nước theo ngành:
Ngành là 1 tập hợp các đơn vị kinh tế có 1 số điểm chung về đầu vào, đầu ra hay cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ.
Nhà nước phải quản lý theo ngành bởi vì các đơn vị cùng ngành thường có các vấn đề kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, lao động, nguyên liệu, tiêu thụ... giống nhau cần được giải quyết 1 cách thống nhất trên cơ sở hợp tác với nhau hoặc so 1 trung tâm quản lý nhất định.
Quản lý nhà nước theo ngành bao gồm các hoạt động sau:
+ Định hướng đầu tư xây dựng XD lực lượng của ngành, chống sự mất cân đối trong cơ cấu ngành và vị trí ngành trong cơ cấu chung của nền kinh tế quốc dân.
+ Thực hiện các chính sách, các biện pháp phát triển thị trường chung cho toàn ngành, bảo hộ sản xuất ngành nội địa.
+ Thống nhất hoá, tiêu chuẩn hoá quy cách, chất lượng hàng hoá và dịch vụ, hình thành hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng sản phẩm để cơ quan có thẩm quyền ban bố.
+ Thực hiện các chính sách quốc gia trong phát triển nguồn nhân lực, nhiên liệu, trí tuệ khoa học và công nghệ chung cho toàn ngành.
+ Tham gia xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, pháp qui, thể chế kinh tế theo chuyên môn của mình để cùng các cơ quan chức năng chuyên môn khác hình thành hệ thống văn bản pháp luật quản lý ngành.
2. Quản lý nhà nước theo lãnh thổ.
a. Trong quản lý nhà nước theo lãnh thổ thì lãnh thổ kinh tế được hiểu như sau:
+ Lãnh thổ kinh tế là lãnh thổ chứa đựng 1 nhóm các đơn vị kinh tế có quan hệ với nhau về 1 hay một số mặt nào đó trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Lãnh thổ kinh tế có nhiều cấp, do các đơn vị kinh tế có nhiều mối quan hệ mà mỗi loại quan hệ lại có tầm quan hệ riêng, rộng hẹp khác nhau. Không có đơn vị công nghiệp nào của riêng 1 cấp, do riêng 1 cấp quản lý. Mọi đơn vị kinh tế đều bị mọi cấp đồng thời quản lý nhưng chỉ về 1 vài mặt nhất định nào đó mà thôi.
+ Lãnh thổ kinh tế đồng nhất với lãnh thổ hành chính, tuy trên thực tế không thể trùng khớp được. Lãnh thổ hành chính lấy dân cư làm chuẩn phân định, có kết hợp với địa hình, địa vật, hệ thống kinh tế, nhưng lãnh thổ kinh tế có căn cứ khách quan riêng của nó. Tuy vậy 2 lãnh thổ này không thể tách rời nhau, hơn nữa lãnh thổ kinh tế phải phục vụ lãnh thổ hành chính xuất phát từ con người là trung tâm.
+ Quản lý nhà nước về kinh tế theo lãnh thổ đồng thời là quản lý nhà nước theo địa bàn hành chính, đơn vị hành chính lãnh thổ.
b. Các đơn vị kinh tế phải được nhà nước quản lý theo lãnh thổ vì:
+ Trước hết, chúng cần thống nhất hành động khi cùng phục vụ cộng đồng dân cư theo lãnh thổ sao cho tổng cung và cơ cấu cung phù hợp với tổng cầu và cơ cấu cầu trên mỗi địa bàn, lãnh thổ. Thông thường, các đơn vị kinh tế đều có 1 địa bàn tiêu thụ sản phẩm của mình, có 1 cộng động dân cư là khách hàng. Và ngược lại, mỗi cộng đồng dân cư theo lãnh thổ thường có 1 số đơn vị kinh tế nhằm vào mình để phục vụ. Ngoài các đơn vị kinh tế còn có các đơn vị giáo dục, y tế, văn hóa.... Sự cung ứng của các loại hàng hóa, dịch vụ của các đơn vị kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế trên địa bàn phải cân đối với nhau. Sự cân đối này tùy thuộc vào phong tục tập quán và quỹ thu nhập, quỹ tiêu dùng, sức mua và khả năng thanh toán của cộng đồng dân cư. Người liên kết hành động của các đơn vị liên ngành trên địa bàn không là ai khác chính quyền lãnh thổ.
+ Hai là, các đơn vị kinh tế cần thống nhất hành động trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng cho kinh tế và dân sự của bản thân sao cho mỗi đơn vị được đảm bảo tốt nhất về hậu cần nhưng không cản trở đơn vị khác. Đơn vị kinh tế nào cũng cần kết cấu hạ tầng như cấp thoát nước, giao thông, liên lạc, cần địa thế thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giao dịch của mình nhưng không 1 đơn vị kinh tế nào có thể tự túc được các nhu cầu trên của bản thân mà không cản trở đơn vị bạn, cản trở dân cư. Do vậy, cần phải có 1 chủ thể quản lý theo địa bàn để tổ chức việc giải quyết các vấn đề trên 1 cách tối ưu.
c. Nội dung quản lý nhà nước theo lãnh thổ:
+ Quản lý nhà nước của cơ quan quản lý ngành trên lãnh thổ, đây thực chất là sự quản lý của cơ quan quản lý ngành được thực hiện bằng các cơ quan chuyên môn đặt theo lãnh thổ.
+ Quản lý nhà nước của chính quyền lãnh thổ với những nội dung sau:
- Định hướng đầu ra cho các đơn vị kinh tế sao cho cân đối hài hoà về lượng, chất, thời gian trong sự tương đồng với nhau và với nhu cầu cũng như khả năng tiếp nhận của người tiêu dùng trên lãnh thổ, xét theo khả năng thu nhập cũng như thị hiếu, vị hiếu của dân cư trên lãnh thổ.
- Tổ chức trực tiếp hay gián tiếp việc xây dựng kết cấu hạ tầng thuộc tầm lãnh thổ đó để đảm bảo chung cho tập đoàn kinh tế liên ngành đóng trên lãnh thổ.
3. Kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và lãnh thổ:
a. Phải kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và lãnh thổ bởi những lý do sau:
+ Thứ nhất, có thể có sự chồng chéo giữa 2 chiều quản lý, gây trùng lập hay bỏ sót trong quản lý nhà nước của tuyến.
+ Thứ hai, mỗi chiều quản lý có thể không thấu suốt được tình hình của chiều kia, từ đó có thể có những quyết định quản lý phiến diện, kém chuẩn xác.
+ Thứ ba, mọi sự phân công quản lý theo ngành và theo lãnh thổ đều chỉ có thể đạt được sự hợp lý tương đối vì vẫn có khả năng bỏ sót hoặc chồng chéo. Nếu tách bạch quá có thể làm cho những chỗ bỏ sót, chồng chéo chậm được phát hiện và xử lý, dẫn đến hậu quả sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.
b. Sự kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ được thực hiện như sau:
+ Thực hiện quản lý đồng thời theo cả 2 chiều: Theo ngành và theo lãnh thổ.
+ Có sự phân công quản lý rành mạch cho các cơ quan quản lý theo ngành và theo lãnh thổ không trùng, không sót.
+ Các cơ quan quản lý nhà nước mỗi chiều thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý theo thẩm quyền của mình trên cơ sở đồng quản, hiệp quản, tham quản với cơ quan thuộc chiều kia theo qui định cụ thể của nhà nước.
* Ví dụ minh hoạ:
Câu 7: Nêu khái niệm quản lý theo ngành.
Câu 8: Các phương pháp quản lý kinh tế. Trình bày phương pháp kích thích kinh tế trong quản lý. Cho ví dụ minh hoạ.
I. Các phương pháp quản lý kinh tế:
Phương pháp quản lý kinh tế là tổng thể các cách thức và biện pháp quản lý có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong hoạt động quản lý kinh tế nhà nước có thể và cần phải thực hiện đồng thời 3 phương pháp chủ yếu, đó là:
+ Phương pháp cưỡng chế.
+ Phương pháp kích thích kinh tế.
+ Phương pháp thuyết phục, giáo dục.
II. Phương pháp kích thích kinh tế.
1. Phương pháp kinh tế là cách tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế để cho đối tượng quản lý lựa chọn phương án hoạt động sản xuát kinh doanh có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ.
2. Đặc điểm của phương pháp kinh tế là tác động, điều chỉnh hành vi của chủ thể kinh tế không phải bằng cưỡng chế, mệnh lệnh hành chính mà bằng lợi ích. Có nghĩa là dùng cái lợi (lợi nhuận) mà các doanh nghiệp, doanh nhân ham muốn làm động lực để hướng hành vi của họ đi theo mục đích mong muốn của nhà nước.
3. Nhà nước sử dụng các công cụ kích thích kinh tế:
+ Các công cụ của chính sách tài chính: Thuế và chi tiêu Chính phủ.
+ Các công cụ của chính sách tiền tệ: Kiểm soát mức cung tiền và lãi xuất.
+ Các công cụ của chính sách thu nhập: Giá cả và tiền lương.
+ Các công cụ của chính sách thương mại: Thuế nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu, tỷ giá hối đoái, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế.
4. Vai trò của phương pháp kinh tế:
+ Thông qua việc vận dụng phương pháp kinh tế nhà nước tạo ra áp lực kinh tế và kích thích kinh tế cần thiết đối với các chủ thể nhằm động viên tính tích cực của họ để đạt được mục tiêu nhà nước đề ra.
+ áp dụng phương pháp kinh tế cũng có nghĩa nhà nước tác động 1 cách gián tiếp vào nền kinh tế làm nó vận động theo các qui luật khách quan và hướng tới mục tiêu mong muốn.
+ Trong nền kinh tế thị trường thì phương pháp kinh tế phải chiếm vai trò chủ đạo trong việc vận dụng các phương pháp trong quản lý nhà nước về kinh tế.
5. Phương pháp kinh tế được sử dụng trong những trường hợp sau:
+ Có khả năng tạo ra sự đồng chiều về lợi ích của đối tượng quản lý và của nhà nước, tức là khi nhà nước đưa ra các tình huống, các nhiệm vụ và các điều kiện vật chất để kích thích phải làm sao đảm bảo được là nếu các doanh nghiệp, doanh nhân thực hiện những nhiệm vụ đó thì vừa đem lại mục tiêu của nhà nước, đồng thời chính họ cũng phải có lợi. Nếu chỉ đem lại lợi ích cho nhà nước còn bản thân họ chẳng được gì hoặc được quá ít thì không bao giờ kích thích được Họ.
+ Khi nhiệm vụ của nhà nước đưa ra có thể lựa chọn được. Điều này có nghĩa là với mong muốn của nhà nước đặt ra, nếu các doanh nghiệp thực hiện được thì rất tốt nhưng nếu chưa thực hiện được ngay thì cũng chưa ảnh hưởng đến lợi ích của đất nước. Còn trong trường hợp nếu việc thực hiện đòi hỏi bức xúc, nếu không sẽ ảnh hưởng đến lợi íhc của đất nước thì nhà nước không thể dùng biện pháp kích thích kinh tế mà phải dùng biện pháp hành chính để bắt buộc đối tượng quản lý thực hiện.
6. Những yêu cầu khi thực hiện phương pháp kinh tế:
+ Phải hoàn thiện các đòn bẩy kinh tế, nâng cao năng lực vận dụng các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường.
+ Phải thực hiện sự phân cấp đúng đắn giữa các cấp quản lý theo hướng mở rộng quyền hạn cho cấp dưới.
+ Đòi hỏi cán bộ quản lý phải có 1 trình độ và năng lực về nhiều mặt.
* Ví dụ minh hoạ:
Câu 9: Hệ thống công cụ quản lý kinh tế. Có thể sắp xếp theo thứ tự ưu tiên các công cụ đó như thế nào? Ví dụ thực tế để phân tích cơ chế tác động của 1 công cụ vào hoạt động của nền kinh tế mà anh (chị) nắm vững.
I. Hệ thống công cụ quản lý kinh tế:
1. Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra.
2. Công cụ quản lý của nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện mà nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý kinh tế của nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định. Thông qua các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của nhà nước mà nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình đến các chủ thể, các thành viên tham gia hoạt động trong nền kinh tế.
3. Hệ thống công cụ quản lý kinh tế của nhà nước bao gồm các nhóm:
a. Công cụ thể hiện ý đồ, mục tiêu của quản lý:
+ Đường lối
+ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
+ Kế hoạch.
+ Tiêu chuẩn, chất lượng, qui cách sản phẩm.
+ Chương trình, dự án.
b. Công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự, hành vi trong các quan hệ kinh tế khi thực hiện các mục tiêu nói trên bao gồm: Hiến pháp; các đạo luật, các nghị quyết của Quốc hội; nghị quyết, nghị định của Chính phủ và quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; quyết định, thông tư, chỉ thị của các Bộ và cơ quan thuộc Bộ.
c. Công cụ thể hiện các tư tưởng, quan điểm của nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế trong 1 thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã dề ra: Chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập, chính sách ngoại thưong (thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá...).
d. Các công cụ vật chất thuần tuý bao gồm:
+ Đất đai, rừng núi, sông hồ, các ngồn nước.
+ Tài nguyên trong lòng đất.
+ Các nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa.
+ Hệ thống Ngân hàng Trung ương.
+ Kho bạc Nhà nước.
+ Hệ thống dự trữ, bảo hiểm quốc gia.
+ Doanh nghiệp nhà nước và vốn và tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp.
e. Công cụ để sử dụng các công cụ nói trên:
+ Bộ máy quản lý nhà nước.
+ Cán bộ, công chức nhà nước.
+ Các công sở.
II. Sắp xếp theo thứ tự ưu tiên các công cụ đó như thế nào?
III. Ví dụ thực tế để phân tích cơ chế tác động của 1 công cụ vào hoạt động của nền kinh tế mà anh (chị) nắm vững.
Câu 10: Trình bày các công cụ chủ yếu của chính sách tài chính. Cho ví dụ minh hoạ của 1 công cụ của chính sách này.
Trình bày các công cụ chủ yếu của chính sách tài chính:
1. Theo cách hiểu chung nhất chính sách tài chính là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc xử lý của nhà nước đối với các quan hệ tài chính quốc gia thông qua việc sử dụng các công cụ tài chính, cụ thể là thuế và chi tiêu ngân sách. Trong kinh tế vĩ mô chính sách tài chính là việc Chính phủ sử dụng thuế khoá và chi tiêu công cộng để điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế, đưa nền kinh tế về mức sản lượng tiềm năng.
Về nguyên tắc, Chính phủ sử dụng chính sách tài chính nhằm duy trì tổng cung của toàn xã hội luôn tương ứng hoặc xấp xỉ sản lượng tiềm năng của nên kinh tế, thông qua đó có thể loại bỏ được hiện tượng suy thoái hoặc tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển ổn định, cân bằng, bền vững.
Giả sử nền kinh tế đang lâm vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp, các nhà doanh nghiệp tư nhân không muốn đầu tư thêm, người tiêu dùng không muốn chi tiêu thêm cho tiêu dùng. Lúc này để mở rộng tổng cầu, Chính phủ phải tăng chi tiêu hoặc giảm thuế, nâng cao mức chi tiêu chung của nền kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế đang trong trạng thái phát đạt quá mức, lạm phát tăng lên, Chính phủ có thể giảm chi tiêu và tăng thuế, nhờ đó mức chi tiêu chung giảm đi, sản lượng giảm theo và lạm phát sẽ chững lại.
Như vậy, mục tiêu của chính sách tài chính là nhằm đảm bảo tăng trưởng ổn định. Trên thực tế bằng chính sách tài chính không chỉ thúc đẩy tăng trưởng mà còn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực công nghiệp cạnh tranh, duy trì ổn định nền kinh tế bước vào hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Hai công cụ chủ yếu của chính sách tài chính là thuế và chi tiêu của Chính phủ:
a. Chi tiêu của Chính phủ là từ ngân sách. Chi tiêu của Chính phủ là quỹ tiền tệ quốc gia, dùng để chi tiêu cho toàn bộ hoạt động chung hàng năm, do Chính phủ quản lý và sử dụng theo Luật ngân sách nhà nước và kế hoạch phê chuẩn. Chỉ trên cơ sở luật định, Chính phủ mới được chi tiêu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luật định về các khoản chi, hạn mức chi tính theo tỷ lệ trong tổng số, Chính phủ còn có 1 khoản tự do nhất định trong điều hành ngân sách, cụ thể là trong chi tiêu ngân sách nhà nước, ở góc độ này Chính phủ cần và có thể phát huy tác dụng điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân.
Khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp cao, tổng cầu ở mức thấp nhất, chi tiêu của Chính phủ có tác dụng làm cho cầu tiêu dùng của Chính phủ tăng lên, dẫn đến sự gia tăng tổng chi tiêu của xã hội, tổng cầu tăng làm cho cung lại có cầu thúc đẩy, kinh tế sẽ ra khỏi suy thoái. Đặc biệt, riêng việc tăng cầu đầu tư sẽ ảnh hưởng tới tổng cầu theo mô hình số nhân, nhờ đó mà đẩy mức tăng sản lượng đến gần sản lượng tiềm năng.
Khi nền kinh tế ở trạng thái nóng, việc giảm chi tiêu của Chính phủ sẽ có tác dụng giảm mức chi tiêu chung của toàn xã hội, giảm tổng cầu.
b. Thuế:
Thuế là 1 khoản thu của nhà nước đối với các tổ chức và mọi thành viên trong xã hội, khoản thu đó mang tính bắt buộc, không hoàn trả trực tiếp được pháp luật qui định.
Sự xuất hiện nhà nước đòi hỏi cơ sở vật chất để đảm bảo điều kiện cho nhà nước tồn tại và thực hiện chức năng của mình. Nhà nước dùng quyền lực chính trị để ban hành những quyết định pháp luật cần thiết làm công cụ phân phối lại 1 phần của cải của xã hội và hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước. Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã hội và cơ sở chủ yếu tạo khả năng và nguồn thu để thuế tồn tại, phát triển. Như vậy, thuế là phạm trù lịch sử và là 1 tất yếu khách quan xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của nhà nước. Thuế phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước. Thuế được nhà nước sử dụng như 1 công cụ kinh tế quan trọng nhằm huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước, góp phần điều chỉnh kinh tế và điều hoà thu nhập.
Thuế là khoản thu chủ yếu của ngân sách nhà nước.
+ Thuế góp phần điều chỉnh nền kinh tế.
+ Thuế góp phần đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội.
Khi nền kinh tế ở trạng thái suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp cao, tổng cầu giảm, các doanh nghiệp giảm đầu tư, dân cư giảm tiêu dùng, Nhà nước giảm thuế cho dân, nhờ đó làm tăng thu nhập khả dụng, doanh nhân lại tăng đầu tư, dân cư lại tăng tiêu dùng, tổng cầu lại tăng thúc đẩy cung, kinh tế sẽ ra khỏi suy thoái.
Khi nền kinh tế ở trạng thái nóng, cầu tăng hơn cung, Nhà nước có thể tăng thuế để hạn chế mức tiêu dùng của toàn xã hội. Khi đó giá cả sẽ hạ, cung sẽ giảm, nền kinh tế trở lại mức tăng trưởng ổn định.
Câu 11: Trình bày các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ.
1. Chính sách tiền tệ là hệ thống quan điểm, nguyên tắc do nhà nước đề ra để chỉ đạo việc xây dựng các giải pháp tiền tệ nhằm ổn định nền kinh tế quốc dân. Theo lý thuyết Keynes, điều tiết khối lượng tiền tệ là 1 trong những công cụ cơ bản để điều tiết nền kinh tế. Khối lượng tiền tệ ảnh hưởng đến ổn định giá cả và lãi suất, đến lượt nó lãi suất là giá cả của tiền vay. Việc tăng hay giảm cung về tiền đều do Ngân hàng Trung ương quyết định. Trường hợp cung về tiền tăng lên, thì lãi suất giảm; lãi suất giảm xuống sẽ làm gia tăng các khoản chi đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu tăng lên, qua đó tổng cầu tăng lên sẽ làm gia tăng sản lượng và việc làm. Ngược lại, khi nền kinh tế phát triển quá nóng, cung về tiền giảm đi, lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, từ đó làm giảm chi tiêu của nền kinh tế, tổng cầu giảm, nền kinh tế thoát ra khỏi tình trạng phát triển quá nóng.
Ngân hàng Trung ương có thể thực hiện điều tiết cung về tiền tệ thông qua 3 công cụ chủ yếu: lãi suất chiếc khấu, dự trữ bắt buộc và thị trường mở.
+ Lãi suất chiếc khấu là công cụ quan trọng để Ngân hàng nhà nước tính lãi đối với các khoản cho Ngân hàng thương mại vay, nhằm khống chế chất lượng và số lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại. Tuỳ theo nhu cầu hạn chế hay khuyến khích mà lãi suất chiếc khấu cao hay thấp hơn lãi suất ngân hàng đó cho khách vay.
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ số giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hoá trên tổng số tiền gửi mà Ngân hàng nhà nước qui định nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán và cho vay của Ngân hàng thương mại. Thông qua việc điều chỉnh trực tiếp tỷ lệ dự trữ bắt buộc Ngân hàng nhà nước tác động cả vào khối lượng và giá cả tín dụng của Ngân hàng thương mại.
+ Thị trường mở là thị trường tiền tệ của Ngân hàng nhà nước là 1 kênh quan trọng để Ngân hàng nhà nước có thể can thiệp được vào hoạt động của thị trường tiền tệ. Cụ thể như sau: muốn ngăn chặn lạm phát, thu hút bớt lượng tiền tệ dư thừa trong lưu thông, Ngân hàng nhà nước bán các loại chứng chỉ có giá của Chính phủ ra thị trường. Trong trường hợp này, Ngân hàng nhà nước không chỉ giảm bớt khối lượng tiền ngoài lưu thông mà còn thu hẹp được khối lượng tín dụng. Ngược lại, cần bơm tiền vào lưu thông cho phù hợp với mức tăng trưởng của nền kinh tế, hay bù lượng tiền thiếu hụt do lạm phát giá khi chưa ngăn chặn được, Ngân hàng nhà nước mua lại các chứng chỉ có giá của Chính phủ. Nhờ vậy, 1 khối lượng tiền được phát hành vào lưu thông để mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư, giảm bớt thất nghiệp.
Chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến tăng trưởng sản lượng về mặt ngắn hạn, song do tác động đến đầu tư nên nó cũng có ảnh hưởng đến sản lượng tiềm năng về mặt dài hạn.
Ví dụ: Lãi suất.
Lãi suất là số so sánh giữa số tiền phải trả thêm mà vốn được sử dụng trong 1 khoảng thời gian nhất định.
Vai trò của lãi suất: Giúp cho các doanh nghiệp đầu tư 1 cách có hiệu quả; là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế; là công cụ thu hút vốn đầu tư.
Khi lãi suất thay đổi, nó tác động nhiều đến hoạt động của nền kinh tế:
+ Lãi suất tăng - nhu cầu tiền giảm - đầu tư giảm- sản lượng giảm- nền kinh tế ...
+ Lãi suất giảm - nhu cầu tiền tăng - đầu tư tăng - sản lượng tăng - nền kinh tế ...
Nhà nước vận dụng công cụ lãi suất:
+ Khi nền kinh tế suy thoái, thất nghiệp nhiều, mở rộng chính sách tiền tệ, thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, làm cho cung tiền tăng, giảm lãi suất. Khi lãi suất giảm, cung tiền tăng, đầu tư sẽ tăng lên, thì sản lượng cũng sẽ tăng theo, đồng thời tỷ lệ thất nghiệp giảm. Ví dụ: Thông qua nghiệp vụ thị trường mở - mua trái phiếu, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất chiếc khấu.
+ Khi nền kinh tế phát triển quá nóng (đầu tư tăng, tổng cầu tăng, giá cả tăng, lạm phát tăng) Nhà nước dùng giải pháp chính sách tài chính hạn chế (thắt chặt): giảm chi tiêu, tăng thuế, giảm lượng cung tiền và tăng lãi suất. Khi lượng cung tiền giảm và lãi suất tăng sẽ làm hạn chế đầu tư, và dẫn đến sản lượng giảm theo.
Câu 12: Cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. Nội dung đổi mới cơ chế quản lý hiện nay so với cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây.
I. Cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế:
1. Cơ chế là 1 khái niệm chỉ sự diễn biến của quá trình vận hành nội tại của 1 hệ thống, trong đó có sự tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành nên 1 hệ thống trong quá trình vận động của mỗi bộ phận, mỗi yếu tố đó, nhờ đó hệ thống có thể vận động, phát riển theo mục đích đã định.
2. Cơ chế kinh tế là tổng thể các quan hệ tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành nền kinh tế, nhờ đó mà nền kinh tế vận động và phát triển được. Các yếu tố cấu thành cơ chế nền kinh tế bao gồm: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, tổ chức sản xuất, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật; các ngành nghề trong tổng thể nền kinh tế; các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các tổ chức kinh tế có qui mô lớn, vừa, nhỏ. Các yếu tố của cơ chế kinh tế có mối quan hệ qua lại, tương tác lẫn nhau, phản ảnh sự tác động của cung cầu, của giá cả, của lãi suất tín dụng... Đây là 1 dạng cơ chế phức tạp nhất trong cơ chế kinh tế, vì nó là sự hội tụ của hàng loạt biến số, trong đó mỗi biến số đồng thời là hàm số của các biến số khác.
3. Cơ chế quản lý kinh tế là cách thức quản lý kinh tế của nhà nước. Đó là 1 hệ thống các nguyên tắc, các hình thức, phương pháp và các công cụ quản lý mà nhà nước sử dụng để tác động vào nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Các yếu tố cấu thành cơ chế quản lý kinh tế bao gồm: Mục tiêu của quản lý kinh tế, chức năng, nguyên tắc, phương thức, các công cụ và hướng vận dụng chúng trong quản lý kinh tế.
II. Những nội dung đổi mới cơ chế quản lý hiện nay so với cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây:
1. Về mục tiêu:
+ Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây là nhằm xây dựng 1 nền kinh tế XHCN, có lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất tiến tiến. Trong đó, mọi thành viên trong xã hội đều được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc và khẳng định phải xây dựng ngay 1 nền kinh tế chỉ có 1 thành phần kinh tế với 2 hình thức sở hữu toàn dân và tập thể.
+ Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay là xây dựng 1 nền kinh tế XHCN, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Và khẳng định để đạt được mục tiêu đó cần phải xây dựng 1 nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế.
2. Về chức năng quản lý:
+ Trước đây, Nhà nước can thiệp 1 cách trực tiếp, toàn diện, triệt để và sâu rộng vào mọi lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế. Nhà nước đóng vai trò người chỉ huy trực tiếp tất cả các hoạt động kinh tế. Các cơ quan Nhà nước tập trung trong tay mình cả 3 quyền chi phối, đó là quyền quản lý nhà nước về hành chính kinh tế, quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với các doanh nghiệp và quyền quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
+ Nay nhà nước đóng vai trò điều hành vĩ mô (vạch ra định hướng, hỗ trợ, giúp đở và điều tiết), có sự phân định, có sự tách bạch ngày càng rõ 3 quyền để tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Các quyền quản lý nhà nước về hành chính kinh tế đối với các loại hình doanh nghiệp và quyền quản lý với tư cách là chủ sở hữu và đại diện của chủ sở hữu đối với vốn và tài sản của nhà nước trong các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của các cơ quan nhà nước. Còn quyền điều hành hoạt động xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc bộ máy quản lý của các doanh nghiệp. Như vậy có nghĩa là nhà nước chỉ quản lý ở tầm vĩ mô, định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế, tạo lập môi trường, điều chỉnh, điều tiết và kiểm tra giám sát.
3. Về nguyên tắc quản lý:
+ Trước đây, vận dụng nguyên tắc tập trung cao độ nên dẫn đến tệ quan liêu, cửa quyền của nhà nước, tính thụ động ỷ lại, nạn hối lộ, móc ngoặc của các đơn vị kinh tế.
+ Nay, vận dụng đồng thời các nguyên tắc: Tập trung dân chủ, kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, phân biệt quản lý nhà nước về kinh tế với quản trị kinh doanh, bảo vệ quyền lợi và quyền làm chủ cho người lao động, tăng cường pháp chế XHCN trong quản lý kinh tế.
4. Về hình thức quản lý:
+ Trước đây, theo kiểu "cấp phát - giao nộp", đó là 1 nền kinh tế hiện vật, cấp phát hiện vật, giao nộp hiện vật; về tài chính thực hiện "cơ chế xin - cho"; về thực hiện "hạch toán kinh tế là hình thức".
+ Nay theo cơ chế "nghĩa vụ và trách nhiệm"; thực hiện tự chủ về tài chính; thực hiện chế độ hạch toán thực chất thể hiện trên 4 nguyên tắc: tự bù đắp và có lãi; đảm bảo tính độc lập về tài chính; chịu trách nhiệm vật chất và được khuyến khích bằng lợi ích vật chất; thực hiện giám đốc bằng đồng tiền đối với hoạt động của doanh nghiệp.
5. Về phương pháp quản lý:
+ Trước đây, dựa vào mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, các phương pháp rất ít được vận dụng.
+ Nay có sự kết hợp đồng bộ các phương pháp, đó là: phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục.
6. Về công cụ quản lý:
+ Trước đây, chủ yếu sử dụng công cụ kế hoạch pháp lệnh mang tính áp đặt từ cấp trên xuống cấp dưới trong việc giao nhiệm vụ sản xuất kinh doanh bằng 1 hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh.
+ Nay nhà nước sử dụng 1 hệ thống đồng bộ các công cụ kinh tế vĩ mô để quản lý nền kinh tế, đó là: Đường lối phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, pháp lệnh kinh tế, các chính sách kinh tế và các công cụ của các chính sách kinh tế.
Câu 13: Khái niệm và các yếu tố cấu thành của cơ chế quản lý kinh tế. Trình bày những nội dung cần được thực hiện để đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam
I. Khái niệm và các yếu tố cấu thành của cơ chế quản lý kinh tế.
1. Cơ chế là 1 khái niệm chỉ sự diễn biến của quá trình vận hành nội tại của 1 hệ thống, trong đó có sự tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành nên hệ thống trong quá trình vận động của mỗi bộ phận, mỗi yếu tố đó, nhờ đó hệ thống có thể vận động, phát riển theo mục đích đã định.
2. Cơ chế kinh tế là tổng thể các quan hệ tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành nền kinh tế, nhờ đó mà nền kinh tế vận động và phát triển được. Các yếu tố cấu thành cơ chế nền kinh tế bao gồm: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, tổ chức sản xuất, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật; các ngành nghề trong tổng thể nền kinh tế; các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các tổ chức kinh tế có qui mô lớn, vừa, nhỏ. Các yếu tố của cơ chế kinh tế có mối quan hệ qua lại, tương tác lẫn nhau, phản ảnh sự tác động của cung cầu, của giá cả, của lãi suất tín dụng... Đây là 1 dạng cơ chế phức tạp nhất trong cơ chế kinh tế, vì nó là sự hội tụ của hàng loạt biến số, trong đó mỗi biến số đồng thời là hàm số của các biến số khác.
3. Cơ chế quản lý kinh tế là cách thức quản lý kinh tế của nhà nước. Đó là 1 hệ thống các nguyên tắc, các hình thức, phương pháp và các công cụ quản lý mà nhà nước sử dụng để tác động vào nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
II. Các yếu tố cấu thành cơ chế quản lý kinh tế bao gồm:
+ Mục tiêu của quản lý kinh tế.
+ Chức năng.
+ Nguyên tắc.
+ Phương thức.
+ Các công cụ và hướng vận dụng chúng trong quản lý kinh tế.
1. Các nguyên tắc quản lý: Nguyên tắc là tính chung, tính khái quát của các hướng hành động cụ thể, phương hướng chung cho hành động cụ thể, có tính bắt buộc người hành động phải theo. Một hướng hành động nào đó được gọi là nguyên tắc khi nó là hướng chung so với các hướng cụ thể hành động.
Trong quản lý, cần phải có nguyên tắc, bởi vì mỗi cấp quản lý bên trên không thể và cũng không cần chỉ ra phương hướng hành động quá cụ thể cho cấp dưới, đồng thời cũng không phó mặc cho cấp dưới tuỳ ý hành động. Do vậy người quản lý phải đề ra hướng hành động cho mọi cấp dưới ở 1 mức nào đó. Cái mức không quá cụ thể đó được gọi là nguyên tắc. Trong quản lý về kinh tế bao gồm những nguyên tắc sau:
+ Tập trung dân chủ.
+ Kết hợp quản lý nhà nước về kinh tế theo ngành và theo lãnh thổ.
+ Phân biệt quản lý nhà nước về kinh tế với quản trị kinh doanh.
+ Bảo vệ quyền lợi và quyền làm chủ cho người lao động.
+ Tăng cường pháp chế XHCN trong quản lý kinh tế.
2. Các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế: Phương pháp quản lý là tổng thể các cách thức và biện pháp quản lý, có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong hoạt động quản lý kinh tế, nhà nước có thể và cần thực hiện đồng thời 3 phương pháp sau:
+ Phương pháp cưỡng chế: Thực chất là dùng sự thiệt hại làm áp lực để buộc đối tượng tuân thủ theo mục tiêu quản lý của nhà nước, được dùng khi cần điều chỉnh các hành vi mà hậu quả của nó có thể gây ra thiệt hại cho cộng đồng và cho nhà nước.
+ Phương pháp kích thích: bản chất của kích thích là dùng lợi ích làm động lực để khiến đối tượng vì muốn có lợi ích mà tuân theo mục tiêu quản lý do nhà nước đề ra. Phương pháp này được dùng khi cần điều chỉnh các hành vi không có nguy cơ gây hậu quả xấu cho cộng đồng, cho nhà nước hoặc chưa đủ điều kiện áp dụng phương pháp cưỡng chế.
+ Phương pháp giáo dục thuyết phục: bản chất là tạo ra sự giác ngộ trong đối tượng quản lý để đối tượng quản lý tự quản lý, tự thân vận động theo chân lý, đạo lý, pháp lý, cần được áp dụng phương pháp này trong mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tương, bởi vì suy cho cùng cưỡng chế hay kích thích vẫn là nhờ ngoại lực do đó không triệt để. Mặt khác cưỡng chế hay kích thích cũng phải qua hoạt động thuyết phục thì mới truyền tới được đối tượng quản lý để họ cảm nhận được áp lực hay động lực để từ đó mà biết sự thiệt hại hoặc muốn có lợi để tuân theo mục tiêu quản lý do nhà nước đề ra.
3. Công cụ quản lý: Trong hoạt động quản lý đối với nền kinh tế nhà nước cần vận dụng:
+ Công cụ thể hiện ý muốn của chủ thể quản lý, theo đó đối tượng quản lý phải biết mà tuân theo.
+ Công cụ có tác dụng động lực được dùng làm áp lực hay động lực tác động vào đối tượng quản lý của nhà nước.
+ Công cụ thể hiện ý chí của nhà nước trong việc sử dụng các lực lượng nói trên vào việc gây áp lực, đó là hệ thống chế độ, chính sách kinh tế tài chính của nhà nước.
+ Công cụ sử dụng các công cụ nói trên, đó chính là con người, những cán bộ công chức nhà nước, là các cơ quan hành chính nhà nước, là các công sở.
II. Những nội dung cần được thực hiện để đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam :
Đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế là việc làm thường xuyên của nhà nước, bởi vì các đối tượng quản lý thường xuyên thay đổi, thay đổi chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất và sự ra đời những loại hình doanh nghiệp mới, thay đổi quan hệ quốc tế của nước ta trên lĩnh vực kinh tế, thay đổi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hơn nữa, khoa học công nghệ không ngừng tiến bộ tạo ra những thành tựu mới cho phép ứng dụng vào thực tiễn quản lý và đòi hỏi nhà nước phải tổ chức lại bộ máy, phân công lại chức năng, nhiệm vụ quản lý trong nội bộ bộ máy, nâng cao trình độ công chức.
Tổ chức và hoạt động của chủ thể quản lý phải phù hợp với khách thể quản lý. Do vậy, khi đối tượng quản lý có sự thay đổi thì chủ thể quản lý cũng phải thay đổi theo. Những đổi mới của đối tượng quản lý trong quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta trong thời gian qua đã có ảnh hưởng đến chủ thể quản lý là nhà nước trên các mặt sau:
+ Làm thay đổi vị trí của nhà nước đối với các doanh nghiệp.
+ Làm thay đổi chức năng của nhà nước trong quản lý kinh tế.
+ Làm thay đổi khối lượng công tác quản lý.
+ Làm thay đổi yêu cầu đối với các phương thức, phương pháp, biện pháp quản lý.
Do những thay đổi của đối tượng quản lý, công cuộc đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế cần phải nhằm vào các phương diện và thay đổi chúng theo các hướng sau:
1. Đổi mới chức năng nhiệm vụ quản lý của nhà nước:
+ Nhà nước phải tập trung vào chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội trong kinh tế, coi đây là chức năng căn bản của quản lý nhà nước về kinh tế, như vậy với chức năng này trong nền kinh tế đa sở hữu, quản lý của nhà nước không còn là chủ sở hữu duy nhất của nền kinh tế, do vậy, dù muốn hay không nhà nước cũng không có quyền can thiệp vào nền kinh tế như 1 ông chủ mà chỉ có thể như 1 trọng tài, 1 nhạc trưởng đứng ngoài cuộc chơi để điều chỉnh người trong cuộc thực hiện cuộc chơi kinh tế sao cho hợp lý, hợp tình.
+ Nhà nước phải đặc biệt coi trọng và thực hiện tốt chức năng hỗ trợ công dân lập thân, lập nghiệp về kinh tế, coi đó là 1 trong những nét đặc thù của sự đổi mới chức năng quản lý nhà nước về kinh tế so với trước thời kỳ đổi mới. Chức năng này chiếm 1 phần lớn công sức của nhà nước, là chức năng thể hiện tính nhân văn, nhân đạo của nhà nước. Nhờ thực hiện tốt chức năng này mà nhà nước có uy tín với nhân dân, nền chính trị được ổn định.
+ Nhà nước cần ý thức chính xác và thực hiện đầy đủ chức năng đối với các doanh nghiệp nhà nước.
2. Đổi mới phương thức, biện pháp, công cụ quản lý: Nhà nước phải tăng cường phương thức cưỡng chế, phải sử dụng phương thức kích thích, phải làm công tác thuyết phục với nội dung thiết thực, có chất lượng để có sức thuyết phục cao trước các đối tượng quản lý phức tạp mới không thể nhu nhược trong quản lý.
3. Đổi mới đội ngũ công chức: Khi đối tượng quản lý đổi mới, phương thức quản lý cũng đổi mới buộc đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước về kinh tế cũng phải đổi mới. Đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế phải được hiện đại hoá trên các mặt sau:
+ Phải có bản lĩnh chính trị, kinh tế vững vàng, đủ sức tiếp nhận đường lối kinh tế của Đảng và Nhà nước, đủ sức tự lý giải cho mình và lý giải cho quần chúng, cho công dân mọi vấn đề phức tạp, tế nhị của tiến trình kinh tế của đất nước.
+ Phải có trình độ vững vàng về khoa học quản lý nhà nước về kinh tế để ứng phó với mọi thách thức của đối tượng quản lý, thích ứng được những đòi hỏi của quá trình toàn cầu hoá quản lý kinh tế.
+ Phải vững vàng về thể lực để đủ sức chịu đựng mọi gian khó, nguy hiểm trong công vụ.
4. Đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế: Việc đổi mới tổ chức bộ máy này cần thực hiện trên cả 2 phương diện: Cơ cấu lại bộ máy và phân công lại chức năng, nhiệm vụ, chế độ vận hành của cả guồng máy. Bộ máy sinh ra là để làm nhiệm vụ quản lý, khi chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế đã thay đổi thì cơ cấu bộ máy nhà nước ta để quản lý nhà nước về kinh tế cần phải được đổi mới theo hướng sau:
+ Thực hiện tốt nguyên tắc "tập trung-dân chủ".
+ Tách quản lý nhà nước khỏi quản trị kinh doanh.
+ Kết hợp tốt quản lý nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ, tinh giảm đầu mối, xoá bỏ chồng chéo.
Chương II
Câu 14: Trình bày khái niệm doanh nghiệp nhà nước. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước.
I. Trình bày khái niệm doanh nghiệp nhà nước:
1. Theo Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003: Doanh nghiệp nhà nước là "tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn".
Như vậy, với việc phân loại doanh nghiệp nhà nước chúng ta có thể thấy có 1 điểm khác biệt khá lớn, đó là theo Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995, doanh nghiệp nhà nước chỉ tồn tại dưới dạng doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước, được tổ chức bằng hình thức doanh nghiệp nhà nước độc lập và tổng công ty nhà nước, nhưng hiện nay doanh nghiệp nhà nước có thể tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, đó là doanh nghiệp nhà nước có 100% vốn của nhà nước và doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước do nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ, nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp. Và doanh nghiệp nhà nước được tổ chức dưới nhiều hình thức như sau:
+ Công ty nhà nước: là doanh nghiệp do nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo qui định của Luật doanh nghiệp nhà nước. Và được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc lập và tổng công ty nhà nước.
+ Tổng công ty nhà nước: là hình thức liên kết kinh tế trên cơ sở tự đầu tư góp vốn giữa các công ty nhà nước, giữa các công ty nhà nước với các doanh nghiệp khác hoặc được hình thành trên cơ sở tổ chức và liên kết các đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác, hoạt động trong 1 và 1 số chuyên ngành kinh tế-kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả năng kinh doanh và thực hiện lợi ích của các đơn vị thành viên và toàn tổng công ty. Tổng công ty nhà nước được tổ chức dưới 3 hình thức:
- Tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập: là hình thức liên kết và tập hợp các công ty thành viên hoàn toàn độc lập có tư cách pháp nhân, hoạt động trong 1 hoặc 1 số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính nhằm tăng cường tích tụ tập trung vốn và chuyên môn hoá kinh doanh của các đơn vị thành viên và toàn tổng công ty.
- Tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập: là hình thức liên kết thông qua đầu tư, góp vốn của công ty nhà nước qui mô lớn do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ với các doanh nghiệp khác, trong đó công ty nhà nước giữ quyền chi phối.
- Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là Tổng Cty được thành lập để thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với các công ty TNHH nhà nước 1 thành viên chuyển đổi từ các công ty nhà nước độc lập và các công ty TNHH nhà nước 1 thành viên do mình thành lập, thực hiện chức năng đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước và quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với cổ phần, vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp đã chuyển đổi sở hữu hay hình thức pháp lý từ các công ty nhà nước độc lập.
+ Công ty cổ phần nhà nước: là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty nhà nước hoặc tổ chức được nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
+ Công ty TNHH nhà nước 1 thành viên là công ty TNHH do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo qui định của Luật doanh nghiệp.
+ Công ty THNN nhà nước có 2 thành viên trở lên là công ty TNHH trong đó tất cả các thành viên đều là công ty nhà nước hay có thành viên là công ty nhà nước và thành viên khác là tổ chức được nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo qui định của Luật doanh nghiệp.
II. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước:
1. Xây dựng chiến lược qui hoạch, kế hoạch và các dự án phát triển hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
+ Vị trí và tầm quan trọng: Đây là bước mở dầu của toàn bộ quá trình quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, phải có định hướng này mới có thể tiến hành được hoạt động đầu tư xây dựng doanh nghiệp nhà nước.
+ Những sản phẩm quản lý cơ bản cần tạo được qua nội dung này: Khi thực hiện nội dung trên, công tác quản lý nhà nước phải tạo ra được các sản phẩm quản lý như:
- Những chỉ tiêu thể hiện nhiệm vụ riêng của hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
- Mô hình tổng thể lực lượng doanh nghiệp nhà nước cần có để dảm nhận những nhiệm vụ nói trên, được thể hiện thành các dự án doanh nghiệp nhà nước cụ thể.
- Phần tăng, giảm lực lượng doanh nghiệp nhà nước so với mô hình trên, trong đó có những doanh nghiệp nhà nước mới cần xây dựng, bổ sung mới bằng vốn nhà nước và các doanh nghiệp cần cắt giảm do không cần thiết.
- Riêng phần xây dựng bổ sung được thể hiện thành các dự án xây dựng mới và các dự án cải tạo, mở rộng, hiện đại hoá doanh nghiệp nhà nước hiện có.
- Riêng phần cắt giảm các doanh nghiệp nhà nước hiện có không còn cần thiết tồn tại bằng vốn nhà nước như trước nữa, cần được thể hiện thành danh mục và phương án chuyển thể sở hữu cụ thể.
2. Hoàn thiện thể chế tổ chức và quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước:
a. Thực chất là việc tổng kết công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, bổ sung, đổi mới tổ chức quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với sự phát triển thường xuyên của doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp nhà nước.
b. Mục đích, yêu cầu:
+ Tiến hành đều đặn và kịp thời theo từng bước phát triển của bản thân lực lượng doanh nghiệp nhà nước và từng bước phát triển của thị trường.
+ Tiến hành đồng bộ trên cả 2 phương diện: Xem xét tổ chức và hoạt động quản lý của nhà nước và của bản thân từng doanh nghiệp nhà nước. Trong thực tế nội dung này được thể hiện dưới các hình thức sau:
- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế, qui tắc... nhằm điều chỉnh bộ máy và quyền hạn trách nhiệm, nghĩa vụ của các doanh nghiệp nhà nước.
- Bổ sung, hoàn thiện tổ chức bộ máy, phân công nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm giữa các cấp, các ngành trong bộ máy nhà nước để quản lý các doanh nghiệp nhà nước.
- Nội dung này được tiến hành với 2 nội dung chính là tổng kết, đánh giá hệ thống pháp luật, thể chế hiện hành, chỉ ra những bất cập và những tình tiết không khả thi, sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ.Trên cơ sở đó đưa ra những qui định mới phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới của doanh nghiệp và của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý các doanh nghiệp.
3. Tổ chức đầu tư xây dựng doanh nghiệp nhà nước theo kế hoạch, dự án đã lập:
a. Mục tiêu, yêu cầu: Phải tạo ra được kết quả như sau: Biến các kế hoạch, dự án xây dựng mới, xây dựng lại, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước thành hệ thống doanh nghiệp nhà nước mới, công ty cổ phần nhà nước, công ty hoặc doanh nghiệp tư nhân... trên thực tế.
b. Nội dung: được chia thành 2 loại việc chính:
+ Xây dựng mới , xây dựng lại, chỉnh đốn doanh nghiệp nhà nước: Toàn bộ hoạt động này được tiến hành theo trình tự quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước: được tiến hành theo các qui định về tiến hành giải thể và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
4. Khai thác, sử dụng các doanh nghiệp nhà nước vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính của nhà nước:
a. Bản chất: Đây chính là việc sử dụng các doanh nghiệp nhà nước vào việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế mà nhà nước thấy rằng những nhiệm vụ đó cần cho việc thực hiện 1 ý đồ quản lý nào đó.
b. Nội dung:
+ Xác định lại các mục tiêu mà nhà nước cần đạt trong các lĩnh vực hoạt động xã hội mà nhà nước quan tâm.
+ Xác định các hành vi kinh tế có khả năng hay có tác dụng đối với việc thực hiện các mục tiêu trên, chỉ ra những khó khăn trong việc thực hiện các hành vi kinh tế đó và sự cần thiết phải huy động doanh nghiệp nhà nước vào việc thực hiện các hành vi này.
+ Giao nhiệm vụ hoạt động kinh tế trên cho các doanh nghiệp nhà nước.
+ Chuyển giao những phương tiện cần thiết, đủ để cho các doanh nghiệp nhà nước thực hiện xuất sắc các nhiệm vụ được giao, áp dụng các biện pháp, chính sách ưu đãi, ưu tiên đối với doanh nghiệp nhà nước nhằm giúp chúng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao.
+ Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ nói trên nhằm bắt buộc các doanh nghiệp nhà nước thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao tương xứng với mong muốn của nhà nước và phù hợp với những nỗ lực ưu đãi của nhà nước đối với họ.
Câu 15: Vị trí và vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Liên hệ thực tế để chứng minh mức độ thể hiện vai trò của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Nội dung cần được đổi mới trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước để phát huy được vai trò của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
I. Vị trí và vai trò của doanh nghiệp nhà nước:
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế là nền kinh tế nhiều thành phần. Để giữ vững được định hướng XHCN đòi hỏi kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, trong đó các doanh nghiệp nhà nước là 1 bộ phận chính yếu. Hôi nghị lần thứ 3 BCH TW khoá IX đã khẳng định: "Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN, doanh nghiệp nhà nước phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là chủ lực trong hội nhập kinh tế". Vai trò trọng yếu của doanh nghiệp nhà nước thể hiện ở các nội dung sau:
+ Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để nhà nước giữ vững sự ổn định xã hội, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.
+ Mở đường hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế.
+ Đảm nhận các lĩnh vực hoạt động có tính chất chiến lược đối với sự phát triển kinh tế xã hội như cung ứng các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, nhất là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng(giao thông, thuỷ lợi, điện, thông tin liên lạc), xã hội (giáo dục, y tế) và an ninh quốc phòng.
+ Góp phần quan trọng khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị trường: những lĩnh vực mới, các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, công trình công cộng... rủi ro cao, đòi hỏi vốn lớn, thu hồi vốn chậm, lợi nhuận thấp là những ngành cần thiết và tạo điều kiện cho phát triển sản xuất mà các thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư hoặc chưa có khả năng đầu tư thì doanh nghiệp nhà nước cần phải đi đầu mở đường, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
+ Là lực lượng xung kích tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế thúc đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
+ Là lực lượng đối trọng trong cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, chống sự lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế trong điều kiện mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới.
+ Thực hiện 1 số chính sách xã hội như tạo việc làm cho các nhóm xã hội dể bị tổn thương; ở những khu vực khó khăn, kém phát triển như biên giới, hải đảo, miền núi, vùng căn cứ Cách mạng trước đây...
+ Là lực lượng tạo nền tảng cho xã hội mới.
II. Liên hệ thực tế để chứng minh mức độ thể hiện vai trò của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trên các khía cạnh sau:
1. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
2. Về khả năng cạnh tranh.
3. Về tốc độ phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
+ Công nợ của doanh nghiệp nhà nước.
+ Đầu tư đổi mới công nghệ.
+ Số lao động dư thừa.
+ Tài chính của doanh nghiệp.
+ Nhân sự và tiền lương.
+ Tổ chức quản lý.
+ Môi trường kinh doanh.
Sau một thời gian dài thực hiện đổi mới, có thể nói doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường, góp phần tích cực vào việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững, giữ ổn định xã hội, tạo công ăn việc làm, góp phần giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo. Doanh nghiệp nhà nước vẫm là những đơn vị kinh tế mạnh nhất, nắm giữ các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, nhiều doanh nghiệp nhà nước có sản phẩm đạt chất lượng quốc tế và có sức cạnh tranh tốt, đóng góp lớn vào ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, quá trình đổi mới chưa giải quyết được vấn đề hiệu quả, chất lượng và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Hiện tại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng vấp phải nhiều vấn đề nan giải, đó là:
+ Tình trạng tài chính không minh bạch, đa phần doanh nghiệp nhà nước không xác định được giá trị thực sự của mình là bao nhiêu do phương thức tính giá trị dựa vào sổ sách chưa được chính xác. Ngoài ra, tín dụng bao cấp vẫn được duy trì, những can thiệp của cơ quan quản lý chức năng vẫn quá sâu mà không có cơ chế chịu trách nhiệm vật chất đã làm cho tình hình tài chính doanh nghiệp nhà nước không lành mạnh, tạo cơ hội cho một số cán bộ quản lý doanh nghiệp tham ô, tư lợi.
+ Tình trạng lao động không phù hợp, lao động nhiều doanh nghiệp dư thừa trong khi đó thiếu lao động kỹ thuật cao và cán bộ quản lý giỏi, nhiều doanh nghiệp lại chịu sức ép quá lớn về lo thu nhập cho người lao động trong doanh nghiệp.
+ Tình trạng công nghệ, kỹ thuật, thiết bị đã quá lạc hậu, chắp vá, từ nhiều nước khác nhau với các thế hệ công nghệ khác nhau đã đặt doanh nghiệp nhà nước vào tình thế khó khăn. Vì vậy, nếu không giải quyết thích đáng vấn đề đổi mới công nghệ thì các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thể cạnh tranh trong điều kiện hội nhập hiện nay.
+ Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước còn bất hợp lý cả về cơ cấu ngành, vùng và quy mô. Tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước xét về số lượng ở khu vực nông nghiệp, thương mại và dịch vụ là quá lớn, trong khi một cơ cấu hợp lý đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp. Cơ cấu cấp quản lý cũng bất hợp lý ở chỗ tỷ trọng doanh nghiệp thuộc địa phương quản lý quá cao. Về quy mô, đa số doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ, dưới 5 tỷ đồng và ắ là doanh nghiệp địa phương.
III. Nội dung cần được đổi mới trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước để phát huy được vai trò của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay:
+ Sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là cổ phần hóa doanh nghiệp.
+ Tạo ra hệ thống mặt bằng pháp lý để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp dân doanh.
+ Tham gia kinh tế quốc tế và khu vực.
1. Sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước:
Nghị quyết Đại hội X của Đảng khẳng định đường lối tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, mà trước hết là đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình thành loại hình công ty nhà nước đa sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ phần. Hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có ngành chính; có nhiều chủ sở hữu, sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối. Theo hướng này, sẽ sắp xếp những doanh nghiệp nhà nước thành 2 loại:
+ Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích, hoạt động trong các lĩnh vực cung ứng hàng hoá công cộng, được nhà nước hỗ trợ, có cơ chế quản lý, hạch toán đặc thù.
+ Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh: Loại này được phân thành bốn nhóm:
- Nhóm thứ nhất gồm những doanh nghiệp đặc biệt quan trọng mà nhà nước cần giữ 100% vốn sở hữu, thuộc các lĩnh vực cần giữ độc quyền, có vai trò dẫn dắt, mở đường về ứng dụng công nghệ, mũi nhọn, công nghệ cao, quy mô lớn, địa bàn trọng yếu, ngành kinh tế kỹ thuật then chốt hoặc góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, các doanh nghiệp hoạt động bảo đảm nhu cầu cần thiết cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.
- Nhóm thứ hai gồm những doanh nghiệp quan trọng mà nhà nước cần nắm cổ phần chi phối. Dó là doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực, như bán buôn sản phẩm chiến lược, công nghiệp khai khoáng và chế biến quan trọng, các ngành vận tải lớn, các doanh nghiệp có quy mô lớn hoặc đóng góp lớn cho ngân sách.
- Nhóm thư ba gồm các doanh nghiệp không quan trọng đang hoạt động có lãi sẽ tiến hành cổ phần hoá toàn bộ hoặc một phần tuỳ theo sức mua của cán bộ, công nhân viên.
- Nhóm thư tư gồm các doanh nghiệp nhà nước không quan trọng, có vốn dưới 1 tỷ đồng, hoặc làm ăn thua lỗ kéo dài mà nhà nước không cần phải nắm giữ.
2. Thực hiện các biện pháp nhằm làm lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp nhà nước.
+ Giải quyết dứt điểm tình hình công nợ khó đòi, vật tư ứ đọng và mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Chấm dứt hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh đang lâm vào tình trạng phá sản.
+ Đi đôi với các biện pháp huy động vốn và bổ sung vốn từ ngan dách nhà nước, thí điểm chuyển một phần nợ tín dụng của doanh nghiệp nhà nước thành vốn góp của ngân hàng để chuyển thành doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhằm giải quyết khó khăn về vốn, tạo sự gắn bó giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
+ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước, thực hiện kiểm kê, phân loại doanh nghiệp nhà nước, xác định lại tài sản thuộc quyền sử dụng của doanh nghiệp nhà nước.
+ Hoàn thiện cơ chế khuyến khích vật chất đối với cán bộ quản lý và người lao động gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh, kết quả tích luỹ vốn của doanh nghiệp.
3. Cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp nhà nước, chuyển doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp (công ty hoá).
4. Tiếp tục tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động, tập trung vào cải tiến thủ tục hành chính của bộ máy nhà nước theo hướng đơn giản, một cửa; tạo sự thống nhất, đồng bộ trong các văn bản pháp lý hiện hành; xây dựng hệ thống thu thập và cung cấp thông tin tin cậy và kịp thời cho doanh nghiệp, tạo sự thông thoáng thị trường trong các quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường nước ngoài.
chương III
Câu 16: Vì sao các quốc gia phải thực hiện quan hệ kinh tế đối ngoại. Phân tích quá trình hội nhập quốc tế đưa lại những cơ hội và thách thức gì đối với nền kinh tế Việt Nam .
I. Sự cần thiết khách quan phải thực hiện quan hệ kinh tế đối ngoại của các quốc gia xuất phát từ các lý do sau:
1. Do có sự khác biệt về nguồn tài nguyên giữa các quốc gia. Không có một quốc gia nào tiến hành sản xuất của cải vật chất mà không dựa vào tài nguyên và không có một quốc gia nào có thể có đủ mọi loại tài nguyên, điều đáng lưu ý là sự thiếu hụt tài nguyên không giống nhau giữa các quốc gia, vì thế các quốc gia phải trao đổi với nhau nhằm khắc phục dư thừa sản phẩm này, thiếu hụt sản phẩm khác. Đoa chính là một trong những nguyên nhân khách quan để hình thành và phát triển thương mại quốc tế.
2. Do có sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia về khoa học và công nghệ. Trình độ khoa học và công nghệ của mỗi quốc gia thường không đồng đều do những nguyên nhân có tính lịch sử và địa lý tự nhiên. Trong khi đó, công cuộc phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi các quốc gia phải nắm bắt những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, điều đó đòi hỏi các quốc gia phải có quan hệ trao đổi với nhau.
3. Do có sự khác biệt giữa các quốc gia về điều kiện tái sản xuất. Ngoài tài nguyên và khoa học công nghệ, để phát triển sản xuất, mọi quốc gia còn cần lao động và vốn đầu tư ... Những nhân tố này thường không đồng đều giữa các quốc gia, đẫn đến trình độ phát triển của các quốc gia không đèu nhau và do đó, các quốc gia có nhu cầu trao đổi kinh tế.
4. Do mọi quốc gia đều muốn đi sâu vào chuyên môn hóa nên chúng ở vào thế què quặt về kinh tế, thừa sản phẩm, dịch vụ này, thiếu sản phẩm, dịch vụ kia, đòi hỏi các quốc gia phải trao đổi hàng hoá thiếu thừa cho nhau.
5. Do yếu cầu bảo vệ Tổ quốc. Quan hệ kinh tế quốc tế là chỗ dựa quan trọng trong giữ gìn độc lập và hoà bình của mỗi quốc gia. Nếu có quan hệ đa phương, trong đó có quan hệ với các đối tác đáng tin cậy, thì hệ thống đối tác kinh tế đối ngoại sẽ là hậu thuẫn cho việc bảo vệ lãnh thổ trong một mức độ nhất định.
II. Sự cần thiết riêng có của Việt Nam : Việt Nam cũng không ngoài các lý do chung của các quốc gia đối với việc phải có quan hệ quốc tế về kinh tế. Tuy nhiên, trong việc phát triển quan hệ quốc tế về kinh tế của nước ta cần thấy rõ 1 số lý do đặc thù riêng:
1. Yêu cầu bức xúc về vốn và khoa học công nghệ cho việc phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế Việt Nam . Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao mức sông vật chất và tinh thần cho nhân dân, mau chóng rút ngắn khoảng cách về mức sống giữa nhân dân ta và nhân dân thế giới, trước hết là nhân dân các nước trong khu vực.
2. Do nước ta có một số lợi thế so với các nước trên thế giới và khu vực, các tiềm năng chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả, đó là:
+ Mặt bằng xây dựng công nghiệp. Nước ta còn nhiều đất đai để xây dựng các khu công nghiệp, tạo địa bàn cho các cường quốc công nghiệp đến đầu tư xây dựng công nghiệp.
+ Nguồn nguyên liệu dồi dào.
+ Nguồn nguyên liệu, tài nguyên đặc chủng, quý hiếm.
+ Du lịch sinh thái, nguyên sinh.
+ Vị trí giao thông quốc tế; có khả năng xây dựng các cảng biển, cảng hàng không trong các tuyến giao thông quốc tế.
+ Vị trí thương mại, giao dịch quốc tế cho phép mở ra các điểm hội tụ quốc tế tài chính, khoa học, ngoại giao, văn hóa, thể thao...
3. Trình độ tay nghề thấp, trình độ quản lý yếu kém, thị trường cho sản xuất chưa được mở rộng.
III. Phân tích quá trình hội nhập quốc tế đưa lại những cơ hội và thách thức gì đối với nền kinh tế Việt Nam .
1. Cơ hội:
+ Mở rộng thị trường, thu hút được nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
+ Tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu, phát huy được lợi thế so sánh về tài nguyên, lao động.
+ Tạo lập được vị thế mới trong quan hệ quốc tế, tạo lập được trật tự kinh tế quốc tế bình đẳng, cùng có lợi.
2. Thách thức.
+ Do trình độ phát triển thấp nên trong giai đoạn đầu dễ bị chèn ép, thua thiệt trong quá trình hội nhập quốc tế.
+ Đòi hỏi phải giữ vững ổn định chính trị và thúc đẩy quá trình đổi mới.
+ Tạo ra sự chênh lệch phát triển và gia tăng khoảng cách giàu nghèo.
+ Tạo ra những thách thức mới về môi trường, các vấn đề xã hội.
Câu 17: Các hình thức của kinh tế đối ngoại. Trong điều kiện hiện nay của nước ta phải ưu tiên áp dụng hình thức nào, vì sao?
I. Các hình thức của kinh tế đối ngoại:
1. Xuất nhập khẩu hàng hóa:
a. Nguồn gốc xuất nhập khẩu hàng hóa là sự trao đổi, mua bán hàng hoá ra khỏi phạm vi biên giới của 1 đất nước. Xuất nhập khẩu hàng hóa từ các nguyên nhân:
+ Do sự khác nhau về các đặc sản tự nhiên, về tài nguyên. Mỗi nước đều có 1 hoặc 1 số loại tài nguyên nào đó, cũng đồng thời thiếu hụt 1 số loại tài nguyên nào đó.
+ Do sự khác nhau về sở trường lao động truyền thống thường thể hiện ở tay nghề thủ công, ở sản phẩm mang nét văn hóa địa phương.
+ Do sự phân công chuyên môn hóa giữa các nước nhằm tối ưu hóa qui mô sản xuất, sự hình thành và phát triển các khu chế xuất tạo ra khả năng xuất khẩu cao với sản phẩm chế biến sâu, thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tiến bộ và hiệu quả.
Với những lý do này, sản xuất sẽ thiên lệch, trong khi tiêu dùng lại cần toàn diện và cân đối. Điều này sinh ra mâu thuẫn trong cung - cầu hàng hoá. Để giải quyết mâu thuẫn cần có xuất nhập khẩu hàng hoá.
b. Các hình thức xuất nhập khẩu hàng hóa:
+ Xét theo các mức độ chính thống có:
- Xuất nhập khẩu chính ngạch: Các hoạt động ngoại thương có bản hiệu, có giấy phép, có hợp đồng do các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tiến hành.
+ Xuất nhập khẩu không chính ngạch (tiểu ngạch) là hoạt động ngoại thương dân cư, có tính tiểu thương, vùng biên do dân cư tiến hành.
+ Theo tính chất kinh tế có:
- Xuất nhập khẩu mậu dịch: hàng hoá qua biên giới theo con đường mua bán kinh doanh.
+ Xuất nhập khẩu phí mậu dịch: hàng hoá qua biên giới với tính chất mua để dùng, hàng quà tặng.
+ Theo phạm vi luân chuyển hàng hóa có:
- Xuất nhập khẩu qua biên giới là hành vi xuất hàng ra nước ngoài.
- Xuất nhập khẩu tại chỗ: hành vi bán hàng cho người nước ngoài tại nước mình nhưng theo giá xuất khẩu hay theo chế độ giá đặc thù.
c. Vai trò tác dụng của xuất nhập khẩu hàng hóa:
+ Thúc đẩy và đảm bảo vai trò cho chuyên môn hóa sản xuất của mỗi quốc gia có điều kiện đi vào chiều sâu, ổn định.
+ Góp phần làm phong phú thị trường hàng hóa trong nước.
+ Góp phần tận thu các nguồn lợi quốc gia.
+ Góp phần kích thích sản xuất trong nước, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.
Ngoài tác dụng chung, mỗi hình thức xuất nhập khẩu hàng hoá cụ thể còn có tác dụng riêng, ví dụ: xuất nhập khẩu tại chỗ có nhiều ưu điểm trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
2. Xuất nhập khẩu tư bản:
a. Nguồn gốc: Nguyên nhân hoạt động xuất nhập khẩu tư bản xuất hiện:
+ Do sự lệch pha nhàn rỗi về vốn tích lũy giữa các nước.
+ Do sự phát triển không đồng đều về kinh tế giữa các nước tạo nên tình trạng tách rời giữa vốn và lao động. Tức là có nơi thừa vốn, thiếu lao động và ngược lại.
+ Do sự phân bố kinh tế không đồng đều trên thế giới tạo nên những vùng bảo hòa kinh tế, thiếu không gian đầu tư đồng thời có vùng không gian rộng lớn nhưng thiếu vốn đầu tư.
b. Các hình thức xuất nhập khẩu tư bản:
+ Xuất nhập khẩu tư bản gián tiếp: là viện trợ hoặc cho vay. Chủ đầu tư không trực tiếp điều hành và quản lý vốn đầu tư mà chuyển quyền sử dụng cho nước ngoài, chờ hưởng lợi về mặt nào đó: kinh tế, chính trị, xã hội...
Các nước cho vay có nhiều mục đích. Riêng về kinh tế, ngoài mục đích kiếm lợi tức, chủ đầu tư còn theo đuổi các hiệu quả kinh tế khác đạt được ở vốn đầu tư trực tiếp sau này. Trong nhiều trường hợp, đầu tư gián tiếp đóng vai trò tiền trạm, góp phần tạo nên kết cấu hạ tầng kinh tế để sau này khi đầu tư trực tiếp xuất hiện chúng có cơ sở hoạt động thuận lợi và có hiệu quả.
+ Xuất nhập khẩu tư bản trực tiếp (FDI): là hình thức đầu tư của các nhà tư bản ra nước ngoài. Chủ trực tiếp quản lý và điều hành vốn đầu tư tại nước ngoài và thu lợi nhuân, bao gồm các hình thức cụ thể sau:
- Đầu tư độc lập là hình thức tồn tại của vốn nước ngoài có 1 trong các đặc điểm sau:
. Tồn tại dưới dạng doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoạt động không trong khuôn khổ hợp tác, liên doanh, liên kết nào với các doanh nghiệp bản địa.
. Tồn tại biệt lập trong 1 khu vực đặc biệt thể hiện dưới dạng đặc khu kinh tế nước ngoài có thực chất là 1 bộ phận kinh tế nước ngoài đóng trên đất nước nhà.
- Hình thức hội nhập: vốn nước ngoài tham gia vào kinh tế nội địa theo 2 hình thức:
. Liên doanh với vốn của nhà nước hoặc của công dân nước sở tại để tạo thành công ty.
. Hợp tác kinh doanh: vốn nước ngoài không hòa lẫn với vốn trong nước thành 1 công ty mà vẫn tồn tại như 1 doanh nghiệp riêng nhưng thống nhất hành động trong 1 chương trình khai thác tổng thể 1 nguồn lợi kinh tế nào đó.
c. Vai trò xuất nhập khẩu tư bản trực tiếp:
+ Xuất nhập khẩu tư bản trực tiếp (FDI) dù ở dạng nào độc lập hay hạch toán kinh doanh về môi trường giao dịch đều có tác dụng về các mặt sau:
- Tạo việc làm cho nước sở tại, khắc phục được tình trạng thất nghiệp hay dư thừa lao động tự nhiên, tránh được con đường xuất khẩu lao động đầy phức tạp, bất trắc và rủi ro.
- Tạo ra được môi trường trí tuệ công nghiệp hiện đại cho việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước sau này.
- Tạo ra được thị trường quốc tế ngay trong nước mình nhờ đó mà có cơ hội thực hiện xuất khẩu tại chỗ cho những hàng hóa, nguyên liệu, tài nguyên khai thác có số lượng ít, chất lượng khó bảo quản.
- FDI cũng là nguồn nhập khẩu hàng hóa có lợi về giá cả do giảm, miễn được nhiều phụ phí ngoại thương.
+ Riêng FDI tồn tại dưới dạng biệt khu tuy có cách bức bản địa hạn chế 1 số nguồn lợi như đã nêu nhưng lại có lợi nhiều mặt khác: Hình thức biệt khu làm cho các mặt tiêu cực của kinh tế - văn hóa ngoại quốc khó ảnh hưởng tới bản địa; là hàng rào ngăn cách tầm ngắm tò mò của nhiều con mắt soi mói ngoại quốc vào đời sống bản địa và còn là biện pháp để nước sở tại thực hiện quyền giám sát, kiểm soát của mình 1 cách hữu hiệu, đồng thời trong 1 chừng mực nào đó hình thức biệt khu cũng là điều kiện thuận lợi cho các nước sở tại thực hiện tập trung có hiệu quả các nguồn nội lực để phát huy ngoại lực.
+ Các công ty liên doanh nội-ngoại, các tổ hợp khai thác bởi các công ty trong ngoài nước thực sự là con đường cho nước sở tại thực hiện đồng thời các ý đồ quản lý của mình.
3. Xuất nhập khẩu trí tuê: gồm có:
a. Xuất nhập khẩu trí thức: là xuất nhập khẩu trí tuệ dưới dạng các chuyên gia mang trí tuệ được gọi là trí thức: giáo sư, viện sỹ, nhà nghiên cứu, giảng viên...; bao gồm các hình thức sau:
+ Xét theo chiều chuyển động của trí thức có:
- Xuất nhập khẩu tại chỗ là hình thức theo đó nước có trí thức tiếp nhận học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh, nghiên cứu viên sang nước mình để đội ngũ trí thức nước nhà truyền thụ kiến thức cho họ. Theo hình thức này các chuyên gia không xuất dương nhưng trí thức của đất nước vẫn vượt biên giới đến nơi cần nhập khẩu trí thức.
- Xuất nhập khẩu qua biên giới là việc đưa trí thức qua biên giới tới nơi cần nhập khẩu trí tuệ.
+ Xét theo phương diện truyền đạt trí tuệ:
- Xuất nhập khẩu các nhà giáo, theo hình thức này, chuyên gia mang trí tuệ thực hiện chức năng nhà giáo.
- Xuất nhập khẩu các nhà tư vấn khoa học: chuyên gia mang trí tuệ thực hiện chức năng nhà tư vấn khoa học kỹ thuật.
- Xuất nhập khẩu các chuyên gia nghiên cứu trực tiếp: các chuyên gia mang trí tuệ ra sử dụng trực tiếp vào việc nghiên cứu các vấn đề kỹ thuật hay thực tiễn của nước cần nhập khẩu trí tuệ, sau đó để lại kết quả nghiên cứu cho nước sở tại.
+ Vai trò tác dụng của xuất nhập khẩu trí thức:
- Đối với nước nhập khẩu, đây là hình thức nhập khẩu trí tuệ có hiệu quả cao, vì nó tạo nên đội ngũ con người có trí tuệ.
- Đối với nước xuất khẩu: đây là con đường để các nước chưa có nền công nghiệp hiện đại, cơ sở vật chất cho giảng dạy và nghiên cứu còn thấp kém nhưng có đội ngũ trí thức giỏi về hướng dẫn nghiên cứu, vẫn có thể phát huy thế mạnh của mình góp phần phục hưng đất nước, đặc biệt là con đường xuất khẩu trí thức qua biên giới.
b. Xuất nhập khẩu tri thức: là hình thức xuất nhập khẩu trí tuệ trong đó trí tuệ đã thoát ly khỏi nhà khoa học để tồn tại dưới dạng nào đó có khả năng truyền tới người khác.
+ Hình thức: là việc mang xuất nhập khẩu trí tuệ tồn tại dưới dạng sách giáo khoa, các đồ án, các băng đĩa ghi âm, ghi hình biểu đạt trí thức.
+ Vai trò: xuất nhập khẩu tri thức là hình thức xuất nhập khẩu trí tuệ quan trọng nhất, vì khả năng quảng bá rộng lớn của nó và nhiều thuận lợi khác.
c. Xuất nhập khẩu vật tư kỹ thuật: là hình thức xuất nhập khẩu trí tuệ, trong đó trí tuê không chỉ không còn nằm trong đầu các nhà khoa học hay thể hiện trên bản vẽ, công thức mà biến thành vật chất kỹ thuật có khả năng tham gia ngay vào công việc của con người.
+ Hình thức: được thể hiện dưới dạng như: vật liệu mới với các tính chất siêu tự nhiên; nhiên liệu mới với nhiệt lượng cao; nguồn năng lượng mới với những tính năng siêu việt; thiết bị, công cụ mới với tính năng, tác dụng mới.
+ Vai trò:
- Hình thức xuất nhập khẩu này là hình thức xuất nhập khẩu trí tuệ có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng đối với các nước chưa phát triển cao về kinh tế, khoa học và công nghệ. Đây cũng là hình thức có lợi đối với các cường quốc công nghiệp phát triển nơi vừa có dư trí tuệ, vừa có dư khả năng để vật chất hóa trí tuệ đó trước khi để xuất khẩu.
- Trên thực tế có nhiều nước chưa có đủ khả năng sử dụng các trí thức, tri thức nên phải nhập khẩu trực tiếp các vật tư kỹ thuật mới có thể biến chúng thành lực lượng sản xuất của đất nước mình.
d. Xuất nhập khẩu công trình công nghiệp: là 1 dạng cao hơn về chất của xuất nhập khẩu vật tư kỹ thuật. Trong hình thức này, trí tuệ của nước xuất khẩu không chỉ được vật hóa thành vật tư kỹ thuật mà còn được đồng bộ hóa, xây lắp thành công trình công nghiệp khiến nước nhập khẩu trí tuệ này có thể sử dụng ngay vào đất nước họ.
+ Hình thức:
- BT: Đây là sự mua bán đứt đoạn các công trình trí tuệ công nghiệp, là hình thức mua bán thông thường.
- BOT: là sự mua bán gián đoạn các công trình trí tuệ công nghiệp, người bán không bán ngay mà tiến hành khai thác 1 thời gian trước khi chuyển giao.
- BTO: là sự mua bán có kèm theo sự cố vấn hậu mãi về kỹ thuật và công nghệ của bên bán do yêu cầu của bên mua .
+ Vai trò: Đây là hình thức xuất nhập khẩu trí tuệ có vai trò quan trọng nhất trong giai đoạn hiện nay, nó là hình thức kết hợp cả 2 quan hệ trao đổi, đó là quan hệ trao đổi trí tuệ và quan hệ trao đổi tư bản.
4. Xuất nhập khẩu dịch vụ: là các hình thức dịch vụ quốc tế nhằm thu ngoại tệ, gồm có các lĩnh vực chủ yếu sau: Dịch vụ vận chuyển quốc tế, dịch vụ bảo hiểm quốc tế, dịch vụ du lịch quốc tế, dịch vụ viễn thông quốc tế, dịch vụ ngoại hối, dịch vụ xuất khẩu lao động.
Vai trò: tại các nước phát triển dịch vụ thu ngoại tệ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh tế quốc tế. Một mặt các dịch vụ này hỗ trợ tổng thể hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển, mặt khác còn đem lại nguồn thu ngoại tệ rất lớn cho đất nước.
II. Trong điều kiện hiện nay của nước ta phải ưu tiên áp dụng hình thức nào, vì sao?
Câu 18: Khái niệm, vai trò các hình thức chủ yếu của xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Liên hệ để làm rõ những tiêu cực phát sinh trong hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam .
I. Xuất nhập khẩu hàng hóa:
a. Nguồn gốc xuất nhập khẩu hàng hóa là sự trao đổi, mua bán hàng hoá ra khỏi phạm vi biên giới của 1 đất nước. Xuất nhập khẩu hàng hóa từ các nguyên nhân:
+ Do sự khác nhau về các đặc sản tự nhiên, về tài nguyên. Mỗi nước đều có 1 hoặc 1 số loại tài nguyên nào đó, cũng đồng thời thiếu hụt 1 số loại tài nguyên nào đó.
+ Do sự khác nhau về sở trường lao động truyền thống thường thể hiện ở tay nghề thủ công, ở sản phẩm mang nét văn hóa địa phương.
+ Do sự phân công chuyên môn hóa giữa các nước nhằm tối ưu hóa qui mô sản xuất, sự hình thành và phát triển các khu chế xuất tạo ra khả năng xuất khẩu cao với sản phẩm chế biến sâu, thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tiến bộ và hiệu quả.
Với những lý do này, sản xuất sẽ thiên lệch, trong khi tiêu dùng lại cần toàn diện và cân đối. Điều này sinh ra mâu thuẫn trong cung - cầu hàng hoá. Để giải quyết mâu thuẫn cần có xuất nhập khẩu hàng hoá.
b. Các hình thức xuất nhập khẩu hàng hóa:
+ Xét theo các mức độ chính thống có:
- Xuất nhập khẩu chính ngạch: Các hoạt động ngoại thương có bản hiệu, có giấy phép, có hợp đồng do các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tiến hành.
+ Xuất nhập khẩu không chính ngạch (tiểu ngạch) là hoạt động ngoại thương dân cư, có tính tiểu thương, vùng biên do dân cư tiến hành.
+ Theo tính chất kinh tế có:
- Xuất nhập khẩu mậu dịch: hàng hoá qua biên giới theo con đường mua bán kinh doanh.
+ Xuất nhập khẩu phí mậu dịch: hàng hoá qua biên giới với tính chất mua để dùng, hàng quà tặng.
+ Theo phạm vi luân chuyển hàng hóa có:
- Xuất nhập khẩu qua biên giới là hành vi xuất hàng ra nước ngoài.
- Xuất nhập khẩu tại chỗ: hành vi bán hàng cho người nước ngoài tại nước mình nhưng theo giá xuất khẩu hay theo chế độ giá đặc thù.
c. Vai trò tác dụng của xuất nhập khẩu hàng hóa:
+ Thúc đẩy và đảm bảo vai trò cho chuyên môn hóa sản xuất của mỗi quốc gia có điều kiện đi vào chiều sâu, ổn định.
+ Góp phần làm phong phú thị trường hàng hóa trong nước.
+ Góp phần tận thu các nguồn lợi quốc gia.
+ Góp phần kích thích sản xuất trong nước, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.
Ngoài tác dụng chung, mỗi hình thức xuất nhập khẩu hàng hoá cụ thể còn có tác dụng riêng, ví dụ: xuất nhập khẩu tại chỗ có nhiều ưu điểm trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
II. Tiêu cực phát sinh trong xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ:
- Chèn ép nội hóa: Có nhiều quốc gia có lợi thế sản xuất nên có thể bán ra nước ngoài những hàng hóa với giá siêu hạ mà chính họ không bị lỗ trong khi đó những hàng hóa siêu hạ này sẽ bóp chết sản xuất trong nước.
- Tiết lộ bí mật công nghệ quốc gia: hàng hóa là bản tin sống động về thành tựu kinh tế khoa học công nghệ. Nhiều cường quốc có trình độ cao về khoa học-công nghệ chỉ cần căn cứ vào sản phẩm mua được là có thể truy tìm được nguồn gốc, chất liệu, phương pháp công nghệ và hệ thống thiết bị cần có để làm nên sản phẩm. Khi đó họ sẽ sản xuất được với chất lượng tốt hơn nguyên bản với chi phí thấp hơn nhiều.
- Ô nhiễm môi trường: Hàng hóa nước ngoài vào mỗi nước mang theo điều hay và không ít điều dở. Trong chất lượng sản phẩm thường có vấn đề cả về mặt chất lẫn mặt tinh thần, văn hóa. Ngoài chất lượng sản phẩm còn theo nghĩa truyền thống đó, chất lượng sản phẩm còn có nghĩa là chất lương rác thải sinh ra sản phẩm đó.
III. Liên hệ thực tế:
Câu 19: Khái niệm, vai trò, các hình thức của hoạt động ngoại thương. Phân tích và lấy ví dụ thực tiễn những hạn chế cần được khắc phục trong hoạt động ngoại thương ở Việt Nam (xuất nhập khẩu hàng hoá - giống câu 18).
Câu 20: Đầu tư nước ngoài (khái niêm, các hình thức chủ yếu). Vai trò của đầu tư nước ngoài ở Việt Nam . Trong bối cảnh hiện nay ở nước ta Nhà nước cần tập trung ưu tiên áp dụng hình thức nào, vì sao (xuất nhập khẩu tư bản - giống câu 17)?
Câu 21: Trình bày các hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam . Vai trò của Nhà nước trong tổ chức, quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (xuất nhập khẩu tư bản trực tiếp - giống câu 17)?
Câu 22: Khai niệm và các hình thức chủ yếu của hợp tác và chuyển giao khoa học - công nghệ. Trong bối cảnh hiện nay ở nước ta NN cần tập trung ưu tiên áp dụng hình thức nào, vì sao (xuất nhập khẩu vật tư kỹ thuụât và xuất nhập khẩu công trình công nghiệp - giống câu 17)?
Câu 23: Các nguyên tắc cơ bản (quan điểm) trong việc thực hiện quan hệ kinh tế đối ngoại.Trong thực tiễn quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại, nhà nước đã thực hiện tốt những nguyên tắc đó chưa?
I. Các nguyên tắc cơ bản (quan điểm) trong việc thực hiện quan hệ kinh tế đối ngoại:
1. Coi phát triển kinh tế đối ngoại là 1 tất yếu khách quan của đất nước nhằm phát triển kinh tế xã hội theo định hướng XHCN.
Về mặt chủ quan nước ta không thể không mở cửa nếu không muốn tụt hậu. Về mọi mặt của sự phát triển kinh tế chúng ta đều có thế mạnh và thế yếu, phải quan hệ kinh tế quốc tế để khai thác thế mạnh bù đắp thế yếu, phát huy nội lực tranh thủ ngoại viện chính là với nghĩa ấy.
Về mặt khách quan đã đến lúc cho phép nước ta mở rộng quan hệ quốc tế. Đây chính là sự chuyển biến của tình hình quốc tế theo hướng chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hội nhập để phát triển.
2. Bảo đảm độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, phát huy cao độ nội lực, dùng nội lực để thu hút ngoại lực, hướng ngoại lực để phục vụ tốt mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội nước ta: Nguyên tắc này định rõ nội dung lợi ích bao gồm cả chính trị, kinh tế và định rõ biện pháp hàng đầu là phát huy nội lực.
3. Giành và phát huy lợi thế trong phân công lao động quốc tế: Đòi hỏi phải giành quyền lợi trong phân công lao động quốc tế, có vậy mới có thể vừa hội nhập vừa độc lập. Việt Nam ta có những thuận lợi đáng kể về cả 3 mặt: con người, tài nguyên và vị trí.
4. Đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại: Trước đây trong quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta chỉ giới hạn trong các nước XHCN, nay chúng ta đã và sẽ quan hệ với nhiều quốc gia có chế độ chính trị khác nhau, có thế mạnh kinh tế khác nhau. Vì thế, cần chọn đúng đối tượng và hợp tác ở từng lĩnh vực đang cần thiết cho sự phát triển của đất nước. Cần xây dựng tín nhiệm với các đối tác quốc tế, thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
Cần giữ được thị trường truyền thống; quan hệ hợp tác với Trung Quốc, Lào, Campuchia, Trung đông, châu Mỹ, châu phi; các nước ASEAN; Mỹ, Tây âu; khai thác nguồn lực của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
5. Đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại: Đây là điều mang tính qui luật, mang tính khách quan của quá trình phát triển, phát huy được nội lực trong nước và khai thác các cơ hội bên ngoài.Vì vậy cần đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại, xử lý chúng trong 1 tổng thể.
6. Lấy hiệu quả làm tiêu chuẩn để đánh giá hoạt động kinh tế đối ngoại: ở đây nhấn mạnh mục đích cao nhất, mục đích cuối cùng của mở cửa về kinh tế là nhằm mục đích đạt được hiệu quả, trong đó hiệu quả bao giờ cũng phải được hiểu 1 cách toàn diện trên giác độ toàn xã hội và trong tương lai dài không phiến diện, thiển cận. Hiệu quả kinh tế đối ngoại là 1 chỉ tiêu về thước đo năng lực quản lý Nhà nước, của Chính phủ và các Bộ, ngành cùng UBND cấp tỉnh, thành phố.
7. Đổi mới toàn diện và triệt để về quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại theo các nguyên tắc chung của quản lý nhà nước về kinh tế với tinh thần ưu tiên đổi mới quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại, tạo sự thuận lợi tối đa cho mở cửa, thu hút tối đa ngoại lực.
II. Liên hệ thực tế:
Câu 24: Trình bày các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong quản lý kinh tế đối ngoại. Quá trình mở cửa hội nhập kinh tế tạo ra cơ hội và thách thức gì đối với nền kinh tế Việt Nam .
I. Trình bày các quan điểm cơ bản của Đảng và NN ta trong quản lý kinh tế đối ngoại.
1. Coi phát triển kinh tế đối ngoại là 1 tất yếu khách quan của đất nước nhằm phát triển kinh tế xã hội theo định hướng XHCN.
Về mặt chủ quan nước ta không thể không mở cửa nếu không muốn tụt hậu. Về mọi mặt của sự phát triển kinh tế chúng ta đều có thế mạnh và thế yếu phải quan hệ kinh tế quốc tế để khai thác thế mạnh bù đắp thế yếu, phát huy nội lực tranh thủ ngoại viện chính là với nghĩa ấy.
Về mặt khách quan đã đến lúc cho phép nước ta mở rộng quan hệ quốc tế. Đây chính là sự chuyển biến của tình hình quốc tế theo hướng chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hội nhập để phát triển.
2. Bảo đảm độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, phát huy cao độ nội lực, dùng nội lực để thu hút ngoại lực, hướng ngoại lực để phục vụ tốt mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội nước ta: Nguyên tắc này định rõ nội dung lợi ích bao gồm cả chính trị, kinh tế và định rõ biện pháp hàng đầu là phát huy nội lực.
3. Giành và phát huy lợi thế trong phân công lao động quốc tế: Đòi hỏi phải giành quyền lợi trong phân công lao động quốc tế, có vậy mới có thể vừa hội nhập vừa độc lập. Việt Nam ta có những thuận lợi đáng kể về cả 3 mặt: con người, tài nguyên và vị trí.
4. Đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại: Trước đây trong quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta chỉ giới hạn trong các nước XHCN, nay chúng ta đã và sẽ quan hệ với nhiều quốc gia có chế độ chính trị khác nhau, có thế mạnh kinh tế khác nhau. Vì thế cần chọn đúng đối tượng và hợp tác ở từng lĩnh vực đang cần thiết cho sự phát triển của đất nước. Cần xây dựng tín nhiệm với các đối tác quốc tế, thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
Cần giữ được thị trường truyền thống, quan hệ hợp tác với Trung Quốc, Lào, Campuchia, Trung đông, châu Mỹ, châu phi; các nước ASEAN; Mỹ, Tây âu; khai thác nguồn lực của người Việt NamN định cư ở nước ngoài.
5. Đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại: Đây là điều mang tính qui luật, mang tính khách quan của quá trình phát triển, phát huy được nội lực trong nước và khai thác các cơ hội bên ngoài.Vì vậy cần đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại, xử lý chúng trong 1 tổng thể.
6. Lấy hiệu quả làm tiêu chuẩn để đánh giá hoạt động kinh tế đối ngoại: ở đây nhấn mạnh mục đích cao nhất, mục đích cuối cùng của mở cửa về kinh tế là nhằm mục đích đạt được hiệu quả, trong đó hiệu quả bao giờ cũng phải được hiểu 1 cách toàn diện trên giác độ toàn xã hội và trong tương lai dài không phiến diện, thiển cận. Hiệu quả kinh tế đối ngoại là 1 chỉ tiêu về thước đo năng lực quản lý Nhà nước, của Chính phủ và các Bộ, ngành cùng UBND cấp tỉnh, thành phố.
7. Đổi mới toàn diện và triệt để về quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại theo các nguyên tắc chung của quản lý nhà nước về kinh tế với tinh thần ưu tiên đổi mới quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại, tạo sự thuận lợi tối đa cho mở cửa, thu hút tối đa ngoại lực.
II. Quá trình mở cửa hội nhập kinh tế tạo ra cơ hội và thách thức gì đối với nền kinh tế Việt Nam (Tài liệu của cô giáo).
Câu 25: Khái niệm về kinh tế đối ngoại. Phân tích quan điểm đa phương hóa, đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại.
I. Khái niệm về kinh tế đối ngoại: Kinh tế đối ngoại là 1 bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân bao gồm nhiều ngành kinh tế, qua đó 1 quốc gia tham gia vào sự trao đổi quốc tế và phân công lao động quốc tế. Kinh tế đối ngoại gồm tổng thể các hoạt động, các hoạt động kinh tế tài chính và khoa học - kỹ thuật của 1 nước với các nước khác và các tổ chức kinh tế quốc tế. Nội dung chủ yếu trong hoạt động kinh tế đối ngoại Việt Nam bao gồm: Ngoại thương, Đầu tư vốn nước ngoài vào Việt Nam, đầu tư vốn của Việt Nam ra nước ngoài, hợp tác và chuyển giao công nghệ, hoạt động của các dịch vụ có thu ngoại tệ.
II. Phân tích quan điểm đa phương hóa, đa dạng hóa (Tài liệu của cô giáo).
chương IV
Câu 26: Khái niệm dự án đầu tư. Phân tích các bộ phận cấu thành dự án đầu tư. Trong điều kiện hiện nay NN ta cần tập trung giải quyết những vấn đề gì để thực hiện có hiệu quả các dự án đầu tư.
I. Khái niệm dự án đầu tư:
1. Dự án đầu tư nói chung là 1 dự định hành động nào đó đã được lập thành phương án hành động cụ thể, tới mức căn cứ vào đó người ta có thể đánh giá chính xác để phê chuẩn dự định hành động đó hoặc chỉ cần dựa theo đó, dự định hành động sẽ được thực thi 1 cách suôn sẻ.
2. Dự án đầu tư là 1 trong các loại dự án có các đặc trưng sau:
+ Có mục tiêu, mục đích cụ thể.
+ Có 1 hình thức tổ chức xác định để thực hiện dự án đầu tư.
+ Cần tạo ra tiền đề cơ sở vật chất nào đó để đạt mục tiêu, mục đích nói trên.
+ Có sử dụng vốn để đầu tư tạo dựng phương tiện cho việc thực hiện mục đích đã định.
+ Có 1 khoảng thời gian nhất định để thực hiện mục tiêu dự án.
3. Vai trò:
+ Giúp chủ dự án kiểm tra tính cấp thiết, tính khả thi của hành động đầu tư.
+ Dự án là biện pháp thống nhất hành động khi tiến hành 1 hành động do nhiều người, nhiều tổ chức tham gia.
+ Dự án là cơ sở để Nhà nước hiểu tường tận ý dân khi các dự án là của công dân.
II. Các bộ phận cấu thành dự án đầu tư:
1. Lý do đầu tư:
a. Nội dung:
+ Nhu cầu xã hội về 1 loại sản phẩm, 1 loại dịch vụ hoặc 1 nhu cầu phi vật chất nào đó và tính cấp thiết không thể trì hoãn việc đáp ứng các nhu cầu đó. Tính bức xúc của nhu cầu phải được thuyết minh.
+ Những giải pháp hiện có và những bất cập của các giải pháp đó.
+ Tác dụng đưa lại nếu dự án được thực thi, những chỉ tiêu thực hiện mục đích, yêu cầu mục tiêu mà dự án theo đuổi.
b. Mục đích, tác dụng:
+ Đối với các dự án của nhà nước đây là phần quan trọng để cấp dưới thuyết phục cấp trên ủng hộ dự án của mình.
+ Đối với các chủ đầu tư tư nhân, đây là phần thăm dò cơ hội đầu tư. Nội dung phần này quyết định tương lai, vận mệnh kinh tế của đồng vốn bỏ ra, quyết định mức độ rủi ro, đen đỏ của cuộc chơi kinh tế của mỗi người trên con đường lập nghiêp, nên người làm dự án không làm bừa làm ẩu.
2. Thiết kế công trình: là phần thể hiện công trình vật chất được tạo ra sau khi hoàn thành giai đoạn xây dựng cơ bản, thực ra đây là phần thiết kế kỹ thuật gồm có: bản vẽ phối cảnh công trình, sơ đồ tổng mặt bằng công trình và bản vẽ kỹ thuật, chi tiết để thi công.
3. Bảng tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án:
a. Nội dung: Bao gồm các chỉ tiêu thể hiện kết quả XDCB; các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật và chỉ tiêu hiệu quả kinh tế.
Bảng tổng hợp này là căn cứ chủ yếu để xem xét, lựa chọn phương án đầu tư tối ưu. Thường thì mỗi dự án có nhiều phương án và các phương án có thể là của 1 nhà đầu tư, cũng có thể của nhiều nhà đầu tư, trong đó mỗi nhà đầu tư trình 1 dự án của mình. Sau đó các nhà đầu tư bảo vệ dự án của mình thông qua đấu thầu.
4. Các giải pháp thực hiện dự án:
a. Nội dung thường đề cấp đến các vấn đề sau:
+ Nguồn gốc đối với các dự án xin ngân sách Nhà nước cấp.
+ Nguồn gốc tri thức trí tuệ.
+ Giải pháp về nhân lực cho hoạt động của công trình đầu tư sau khi bước vào khai thác.
+ Giải pháp về đền bù đất đai, giải phóng mặt bằng.
+ Các giải pháp đặc thù khác liên quan đến từng loại chuyên ngành.
b. Tầm quan trọng: Đây là phần khẳng định tính khả thi của dự án, nếu không được làm chu đáo không những làm cho dự án không được thực thi mà còn làm uổng phí toàn bộ chi phí cho việc xây dựng các phần đã nói ở trên của dự án. Do đó về phương diện nào đó phần giải pháp cũng là 1 căn cứ quan trọng để 1 dự án được duyệt khi trình duyệt, trúng thầu khi đấu thầu.
5. Tổng tiến độ triển khai dự án: Đây là kế hoạch thi công do chủ dự án lập ra để làm cơ sở cho việc đàm phán với bên thi công. Kế hoạch này chỉ cần sơ bộ đề cập đến: Tiến độ chung hoàn thành các hạng mục công trình, trách nhiệm nhiệm vụ phối hợp với cơ quan thi công của chủ đầu tư, quyền hạn của chủ đầu tư, chế độ nghiệm thu thanh lý quyết toán công trình.
III. Trong điều kiện hiện nay Nhà nước ta cần tập trung giải quyết những vấn đề gì để thực hiện có hiệu quả các dự án đầu tư:
1. Sáng kiến đầu tư: Các cấp Nhà nước theo thẩm quyền phát triển kinh tế xã hội, thẩm quyền chi ngân sách, căn cứ vào định hướng chung của nhà nước cấp trên, vào nhu cầu thực tế của cộng đồng địa bàn mình quản lý, đề xuất các ý tưởng đầu tư bằng ngân sách nhà nước cấp, lên chương trình các vấn đề giải quyết bằng đầu tư.
2. Lựa chọn chủ dự án và xác định rõ trách nhiệm của chủ dự án: Chủ dự án đầu tư là người đại diện cho nhà nước về mặt sở hữu vốn và có trách nhiệm như sau:
+ Trực tiếp thực hiện hoặc thuê các tổ chức tư vấn và các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân lập, hoặc thẩm định dự án do các tổ chức tư vấn khác lập; quản lý dự án, thực hiện dự án đầu tư thông qua hợp đồng kinh tế theo pháp luật hiện hành.
+ Chủ đầu tư có thể sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau theo qui định để thực hiện dự án và có trách nhiệm toàn diện, liên tục về quản lý sử dụng các nguồn vốn đầu tư.
3. Tổ chức quản lý bộ máy nhà nước: Nội dung cụ thể 4 dạng chủ yếu để thành lập và cách thức tồn tại của bộ máy quản lý thực hiện dự án:
+ Bộ máy quản lý theo chức năng của đơn vị trong tổ chức: theo cách tổ chức này, thực chất là giao thêm việc cho các bộ phận chức năng đã có trong 1 tổ chức. Cách tổ chức này không làm thay đổi nhân sự của tổ chức, không làm cho tổ chức biến động.
+ Bộ máy quản lý dự án độc lập: Tức là tổ chức thành 1 bộ phận mới làm chức năng quản lý dự án và sự tồn tại của bộ này gắn với chức năng quản lý dự án và hoàn toàn độc lập về quản lý với các bộ phận chức năng khác của tổ chức.
+ Mô hình tổ chức bộ máy cán bộ quản lý hỗn hợp: Với mô hình này, các dự án đều có bộ máy quản lý riêng nhưng không có đội ngũ cán bộ làm việc chuyên trách cho dự án như trong mô hình độc lập. Ban điều hành phải nhờ các cán bộ của các bộ phận chức năng của tổ chức tham gia quản lý dự án.
+ Mô hình tổ chức quản lý dự án theo mạng: Mô hình này đang được ứng dụng để quản lý các dự án hoạt động trong môi trường có nhiều biến động và có nhiều vấn đề, mục tiêu phải giải quyết.
4. Công bố nhu cầu, kêu gọi dân chúng, các nhà thầu tham gia đấu thầu các đề tài được nêu trong chương trình: Đây là khâu đầu trong toàn phần tìm người để thực thi dự án. Nó báo cho tất cả mọi nh\gười muốn làm thuê cho nhà nước hãy đến tham gia dự tuyển.
5. Tổ chức đấu thầu, chọn người thi công thuê cho nhà nước: bao gồm những công việc sau:
+ Tổ chức bộ máy quản lý của bên A.
+ Tiếp nhận đăng ký của bên A.
+ Tiếp nhận đăng ký đấu thầu.
+ Giao bài thi đấu, thực chất là giới thiệu công việc, cần thuê người làm (được đưa ra ở mục đấu thầu).
+ Giám khảo đấu thầu, chọn người xứng đáng.
6. Ký hợp đồng với nhà trúng thầu: Hợp đồng theo đúng mẫu thống nhất của nhà nước trung ương trong qui chế đấu thầu. Chủ đầu tư căn cứ vào thẩm quyền được giao tiến hành ký hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định dự thảo hợp đồng.
7. Quản lý quá trình thi công:
+ Phối hợp với bên B lập kế hoạch tổng thể chu trình thực hiện dự án.
+ Thực hiện nghĩa vụ của bên A với các điều khoản trong hợp đồng và quyền chủ sở hữu vốn của mình.
Câu 27: Khái niệm dự án đầu tư. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án đầu tư.
I. Khái niệm dự án đầu tư.
1 Dự án đầu tư nói chung là 1 dự định hành động nào đó đã được lập thành phương án hành động cụ thể, tới mức căn cứ vào đó người ta có thể đánh giá chính xác để phê chuẩn dự định hành động đó hoặc chỉ cần dựa theo đó, dự định hành động sẽ được thực thi 1 cách suôn sẻ.
2. Dự án đầu tư là 1 trong các loại dự án có các đặc trưng sau:
+ Có mục tiêu, mục đích cụ thể.
+ Có 1 hình thức tổ chức xác định để thực hiện dự án đầu tư.
+ Cần tạo ra tiền đề cơ sở vật chất nào đó để đạt mục tiêu, mục đích nói trên.
+ Có sử dụng vốn để đầu tư tạo dựng phương tiện cho việc thực hiện mục đích đã định.
+ Có 1 khoảng thời gian nhất định để thực hiện mục tiêu dự án.
3. Vai trò:
+ Giúp chủ dự án kiểm tra tính cấp thiết, tính khả thi của hành động đầu tư.
+ Dự án là biện pháp thống nhất hành động khi tiến hành 1 hành động do nhiều người, nhiều tổ chức tham gia.
+ Dự án là cơ sở để Nhà nước hiểu tường tận ý dân khi các dự án là của công dân.
II. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án đầu tư:
- Tính hợp lý của dự án: thể hiện ở mục đích của dự án.
- Sự ủng hộ và hỗ trợ của cơ quan cáp trên. Nếu không có sự hỗ trợ của các nhà quản lý cấp trên thì không có dự án nào thành công. Sự ủng hộ, hỗ trợ này là điều kiện để có được nguồn lực và thẩm quyền.
- Chất lượng của dự án: thể hiện ở mực độ toàn diện, chi tiết cụ thể của dự án và tính chính xác của các giải pháp.
- Sự tham gia ý kiến và sự chấp thuận của khách hàng.
- Có nhân sự tốt cho dự án. Đây là vấn đề quan trọng, phải chọn nhân sự thích hợp cho từng loại dự án.
- Chất lượng và sức hấp dẫn của hàng hóa mà dự án tạo ra. Đậy chính là cơ chế thị trường. Mọi dự án đều có nhiều đối thủ cạnh tranh để thắng được đối thủ phải trội hơn về: giá cả thấp hoặc chất lượng cao, nếu đạt được cả hai thì tốt, còn không phải đạt được 1 trong 2 mặt trên.
- Có sự dự phòng chu đáo các phương án xử lý tốt những sự cố phát sinh. Trên thực tế chúng ta không lường hết được những khó khăn, sự cố khi thực hiện dự án, khi gặp những vấn đề náy, phải kiểm soát tốt tình hình.
Câu 28: Các bộ phận cấu thành dự án ĐT. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án ĐT. NN ta cần tập trung giải quyết những vấn đề gì để thực hiện có hiệu quả các dự án đầu tư.
I. Các bộ phận cấu thành dự án đầu tư:
1. Lý do đầu tư:
a. Nội dung:
+ Nhu cầu xã hội về 1 loại sản phẩm, 1 loại dịch vụ hoặc 1 nhu cầu phi vật chất nào đó và tính cấp thiết không thể trì hoãn việc đáp ứng các nhu cầu đó. Tính bức xúc của nhu cầu phải được thuyết minh.
+ Những giải pháp hiện có và những bất cập của các giải pháp đó.
+ Tác dụng đưa lại nếu dự án được thực thi, những chỉ tiêu thực hiện mục đích, yêu cầu mục tiêu mà dự án theo đuổi.
b. Mục đích, tác dụng:
+ Đối với các dự án của nhà nước đây là phần quan trọng để cấp dưới thuyết phục cấp trên ủng hộ dự án của mình.
+ Đối với các chủ đầu tư tư nhân, đây là phần thăm dò cơ hội đầu tư. Nội dung phần này quyết định tương lai, vận mệnh kinh tế của đồng vốn bỏ ra, quyết định mức độ rủi ro, đen đỏ của cuộc chơi kinh tế của mỗi người trên con đường lập nghiêp, nên người làm dự án không làm bừa làm ẩu.
2. Thiết kế công trình: là phần thể hiện công trình vật chất được tạo ra sau khi hoàn thành giai đoạn xây dựng cơ bản, thực ra đây là phần thiết kế kỹ thuật gồm có: bản vẽ phối cảnh công trình, sơ đồ tổng mặt bằng công trình và bản vẽ kỹ thuật, chi tiết để thi công.
3. Bảng tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án:
a. Nội dung: Bao gồm các chỉ tiêu thể hiện kết quả XDCB; các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật và chỉ tiêu hiệu quả kinh tế.
Bảng tổng hợp này là căn cứ chủ yếu để xem xét, lựa chọn phương án đầu tư tối ưu. Thường thì mỗi dự án có nhiều phương án và các phương án có thể là của 1 nhà đầu tư, cũng có thể của nhiều nhà đầu tư, trong đó mỗi nhà đầu tư trình 1 dự án của mình. Sau đó các nhà đầu tư bảo vệ dự án của mình thông qua đấu thầu.
4. Các giải pháp thực hiện dự án:
a. Nội dung thường đề cấp đến các vấn đề sau:
+ Nguồn gốc đối với các dự án xin ngân sách Nhà nước cấp.
+ Nguồn gốc tri thức trí tuệ.
+ Giải pháp về nhân lực cho hoạt động của công trình đầu tư sau khi bước vào khai thác.
+ Giải pháp về đền bù đất đai, giải phóng mặt bằng.
+ Các giải pháp đặc thù khác liên quan đến từng loại chuyên ngành.
b. Tầm quan trọng: Đây là phần khẳng định tính khả thi của dự án, nếu không được làm chu đáo không những làm cho dự án không được thực thi mà còn làm uổng phí toàn bộ chi phí cho việc xây dựng các phần đã nói ở trên của dự án. Do đó về phương diện nào đó phần giải pháp cũng là 1 căn cứ quan trọng để 1 dự án được duyệt khi trình duyệt, trúng thầu khi đấu thầu.
5. Tổng tiến độ triển khai dự án: Đây là kế hoạch thi công do chủ dự án lập ra để làm cơ sở cho việc đàm phán với bên thi công. Kế hoạch này chỉ cần sơ bộ đề cập đến: Tiến độ chung hoàn thành các hạng mục công trình, trách nhiệm nhiệm vụ phối hợp với cơ quan thi công của chủ đầu tư, quyền hạn của chủ đầu tư, chế độ nghiệm thu thanh lý quyết toán công trình.
II. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án đầu tư:
- Tính hợp lý của dự án: thể hiện ở mục đích của dự án.
- Sự ủng hộ và hỗ trợ của cơ quan cáp trên. Nếu không có sự hỗ trợ của các nhà quản lý cấp trên thì không có dự án nào thành công. Sự ủng hộ, hỗ trợ này là điều kiện để có được nguồn lực và thẩm quyền.
- Chất lượng của dự án: thể hiện ở mực độ toàn diện, chi tiết cụ thể của dự án và tính chính xác của các giải pháp.
- Sự tham gia ý kiến và sự chấp thuận của khách hàng.
- Có nhân sự tốt cho dự án. Đây là vấn đề quan trọng, phải chọn nhân sự thích hợp cho từng loại dự án.
- Chất lượng và sức hấp dẫn của hàng hóa mà dự án tạo ra. Đậy chính là cơ chế thị trường. Mọi dự án đều có nhiều đối thủ cạnh tranh để thắng được đối thủ phải trội hơn về: giá cả thấp hoặc chất lượng cao, nếu đạt được cả hai thì tốt, còn không phải đạt được 1 trong 2 mặt trên.
- Có sự dự phòng chu đáo các phương án xử lý tốt những sự cố phát sinh.
Trên thực tế chúng ta không lường hết được những khó khăn, sự cố khi thực hiện dự án, khi gặp những vấn đề náy, phải kiểm soát tốt tình hình.
III. Nhà nước ta cần tập trung giải quyết những vấn đề gì để thực hiện có hiệu quả các dự án đầu tư:
- Sáng kiến đầu tư.
- Lựa chọn chủ dự án và xác định rõ trách nhiệm của chủ dự án
- Tổ chức quản lý bộ máy nhà nước.
- Công bố nhu cầu, kêu gọi dân chúng, các nhà thầu tham gia đấu thầu các đề tài được nêu trong chương trình.
- Tổ chức đấu thầu, chọn người thi công thuê cho nhà nước.
- Ký hợp đồng với nhà trúng thầu.
- Quản lý quá trình thi công.
Câu 29: Vai trò và tác dụng của dự án đầu tư. Phân tích tổng quát về các bước soạn thảo 1 dự án đầu tư. Vai trò của nhà nước (chính quyền địa phương) trong quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư.
I. Vai trò và tác dụng của dự án đầu tư.
- Dự án giúp chủ dự án kiểm tra tính cấp thiết, tính khả thi của hành động đầu tư.
- Dự án là biện pháp thống nhất hành động khi tiến hành 1 hành động do nhiều người và nhiều tổ chức tham gia.
- Dự án là cơ sở để nhà nước hiểu tường tận ý dân khi các dự án là của công dân.
II. Các bước soạn thảo 1 dự án đầu tư:
1. Nghiên cứu cơ hội đầu tư, hình thành sáng kiến đầu tư:
a. Cơ hội đầu tư là tổng thể các thành tố tạo thành bối cảnh điều kiện, môi trường thuận lợi nhất cho nhà đầu tư. Cơ hội đầu tư có 2 loại:
+ Cơ hội đầu tư chung.
+ Cơ hội đầu tư riêng.
b. Sáng kiến dự án đầu tư: là sự khởi xướng đầu tư, người đầu tiên khởi xướng nên việc đầu tư được gọi là người có sáng kiến đầu tư. Sáng kiến đầu tư được chia thành 2 nhóm:
+ Sáng kiến đầu tư vĩ mô, chiến lược.
+ Sáng kiến vi mô.
Sáng kiến đầu tư xuất hiện từ nhiều nguồn nhưng nhìn chung mọi sáng kiến đầu tư đều xuất hiện từ cơ hội đầu tư. Các sáng kiến vi mô thường xuất hiện trong khi có cơ hội vĩ mô, các sáng kiến vĩ mô thường xuất hiện trước cơ hội siêu vĩ mô. Đi vào thực tế tùy theo nhà đầu tư là ai các yếu tố có thể trở thành cơ sở cho sự hình thành sáng kiến đầu tư bao gồm:
- Đối với các công dân, đó là các chủ trương, đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước đang quan tâm giải quyết, được thể hiện trong nghị quyết, văn kiện của Đảng và Nhà nước.
- Đối với mọi chủ thể đầu tư, đó là các vấn đề cần phải giải quyết của tổ chức mình.
- Đối với các chính khách quốc gia, đó là các vấn đề xuất hiện trong quá trình làm việc của họ trong hoạt động thực tiễn hàng ngày.
- Đối với nhiều người cơ sở làm nảy sinh sáng kiến đầu tư còn là kinh nghiệm hoạt động quản lý của họ.
- Một số sáng kiến đầu tư được hình thành rất tự nhiên trong quá trình hoạt động điều tra thị trường, tiếp xúc với các khách hàng.
2. Nghiên cứu tiền khả thi.
- Nghiên cứu tiền khả thi là sự nghiên cứu nhằm vào các vấn đề có tính nguyên tắc, những vấn đề lớn ở vòng ngoài thuộc hệ thống các vấn đề cần giải quyết của 1 dự án.
- Nội dung nghiên cứu tiền khả thi và nội dung dự án tiền khả thi thường không cố định cho mọi dự án khác nhau mà tùy thuộc vấn đề cụ thể, tùy thuộc chuyên môn kỹ thuật cụ thể mà dự án đề cập đến. Tuy nhiên nghiên cứu tiền khả thi thường phải giải quyết những vấn đề lớn và quan trọng sau:
+ Tầm quan trọng của dự án.
+ Nguồn nhân lực và nguồn tài chính.
+ Phản ứng của dân chúng.
- Sự cần thiết của nghiên cứu tiền khả thi:
+ Những dự án có qui mô lớn, có độ phức tạp cao, chứa đựng bên trong nhiều yếu tố bất định cần được nghiên cứu để tập hợp ý kiến của các tầng lớp chuyên gia và các nhà quản lý trước tiền khả thi khi đi đến nghiên cứu khả thi vì chi phí cho công việc này thường là rất lớn.
+ Cung cấp thông tin cho các nhà tài trợ trước khi đi đến quyết định có nên đầu tư vào 1 dự án nào đó hay không.
+ Các dự án tiền khả thi là các đơn chào hàng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài.
3. Nghiên cứu khả thi:
- Nghiên cứu khả thi là nghiên cứu các vấn đề còn lại cuối cùng của tổng thể các vấn đề cần nghiên cứu của 1 dự án và đề ra các giải pháp để có thể thực thi dự án.
- Đặc điểm nội dung dự án khả thi:
+ Tính chính xác cao so với nghiên cứu tiền khả thi.
+ Tính toàn diện so với nghiên cứu tiền khả thi.
- Tính khả thi cần được làm rõ trong dự án tiền khả thi:
+ Khả thi về mặt kỹ thuật, công nghệ.
+ Khả thi về kinh tế, tài chính.
+ Khả thi về mặt chính trị xã hội.
III Vai trò của nhà nước (chính quyền địa phương) trong quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư:
1. Định hướng đầu tư, kêu gọi các nhà đầu tư tham gia dự án:
a. Nội dung:
+ Xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, các đề tài dự án hay dự án.
+ Đề tài dự án là tên vấn đề cần giải quyết.
+ Tuyên truyền giới thiệu trong và ngoài nước các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch dự án nói trên.
b. Mục đích:
+ Đối với nhân dân trong nước chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, các đề tài có tính chất chương trình phát triển đất nước có tác dụng làm cơ sở cho toàn dân, cho các tổ chức, công dân, cho chính quyền địa phương có sáng kiến đầu tư, từ đó hình thưnhf các dự án cụ thể.
+ Riêng về danh mục đề tài đầu tư hay các dự án do nhà nước công bố co tác dụng như các nhu cầu của đất nước về đầu tư được công bố thông tin cho những ai có nguyện vọng, có tài tham gia đấu thầu để được thực hiện.
2. Xây dựng hệ thống pháp luật:
a. Những pháp luật và thể chế cần có cho quản lý nhà nước đối với các dự án: các hoạt động đầu tư có thể được điều chỉnh chung bằng hệ thồng pháp luật chung như: Luật Doanh nghiệp, Luật lao động, Luật tài nguyên - môi trường...Ngoài ra cần có qui phạm pháp luật chuyên biệt sau để vận dụng vào điều chỉnh hoạt động đầu tư:
+ Những qui định về phân loại dự án.
+ Những qui định về phân cấp, phân công và thẩm quyền của các cấp trong việc thẩm định và phê chuẩn dự án.
b. Vai trò, tác dụng:
+ Đây là lĩnh vực liên quan nhiều đến quốc tế. Pháp luật là cơ sở để tao nên sự tin cậy của các nhà đầu tư quốc tế.
+ Đây là lĩnh vực hoạt động rất cơ bản với sự nghiệp của 1 con người, 1 tổ chức. Do vậy, mọi nhà đầu tư đều rất thận trọng khi tiến hành hoạt động trọng đại này.
+ Hoạt động đầu tư là hoạt động có ảnh hưởng đến mọi mặt sức mạnh quốc gia. Do vậy nhà nước phải quản lý chặt chẽ, nghiêm minh hoạt động này.
3. Tiến hành thẩm định, cấp phép các dự án của công dân:
Trên cơ sơ định hướng chiến lược kế hoạch của nhà nước, các công dân và tổ chức công dân sẽ lựa chọn và quyết định đầu tư. Vì nhà nước không bỏ vốn nên không quan tâm về mặt vốn nhưng nhà nước xuất phát từ lợi hại của các dự án của nhân dân mà quyết định cho hay không cho phép thực thi.
4. Giám sát công dân thực thi dự án:
Hoạt động giám sát được tiến hành trên tất cả các mặt mà nhà nước đã xem xét và phê chuẩn cho phép thực thi.
5. Phối hợp các dự án của nhà nước với hành động của công dân nhằm đồng bộ hóa dự án trên toàn quốc thành hệ thống.
Nguyên tắc chung là nhà nước chỉ làm những việc công dân không được làm, không làm được và không muốn làm để không xảy ra sự què quặt trong hoạt động xã hội.
No comments:
Post a Comment