V |
iệt Nam đang trong tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong vài năm gần đây, nước ta mới đề cập đến khái niệm nền công vụ trong khi công cuộc đổi mới đã tiến hành hơn hai thập kỷ qua. Mặc dù vậy, những thành quả mà hoạt động công vụ từ trước đến nay đã xây dựng nên là không nhỏ, thêm vào đó là sự ra đời của luật cán bộ, công chức đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát triển của nền công vụ. Đội ngũ cán bộ, công chức đang dần được nâng cao chất lượng nhờ các chính sách đào tạo, bồi dưỡng,… Tất cả đã tạo nên những giá trị nhất định cho nền công vụ Việt Nam.
Nền công vụ Việt Nam đã và đang được quan tâm xây dựng và phát triển cùng với công cuộc đổi mới, hội nhập. Nền công vụ Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi nền công vụ mà Thực dân Pháp đã xây dựng trước đây với mục tiêu cai trị hơn là phục vụ; còn chịu ảnh hưởng của một thời gian dài thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu. Ngoài ra, trước khi Luật cán bộ, công chức được ban hành thì Việt Nam vẫn chưa có một định nghĩa rõ ràng về Công vụ, Cán bộ và Công chức. Không có sự phân biệt rõ ràng giữ hệ thống Đảng với hệ thống Chính phủ làm cho “tính trung lập với chính trị” của các cán bộ, công chức bị hạn chế. Điều này gây ra sự không rõ ràng trong trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ, công chức, ảnh hưởng lớn đến giá trị công vụ Việt Nam.
Giá trị của nền công vụ được đề cập khi nhắc đến những công việc của cán bộ, công chức có những nét đặc trưng riêng khác với các ngành nghề khác và nó được hiểu như là giá trị cốt lõi của của công việc do công chức đảm nhận. Theo thời gian, giá trị công vụ luôn được kế thừa, phát triển và cho tới ngày nay cùng với sự ra đời của Luật cán bộ, công chức, những giá trị của nền công vụ Việt Nam ngày càng được thể hiện rõ nét.
MỤC LỤC
Nội dung | Trang |
LỜI MỞ ĐẦU | |
I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG VỤ VÀ HỆ THỐNG CÔNG VỤ | |
1. Công vụ | |
2. Cán bộ, công chức | |
3. Hệ thống công vụ | |
II.GIÁ TRỊ CÔNG VỤ CỦA HỆ THỐNG CÔNG VỤ VIỆT NAM | |
1. Một số cách tiếp cận giá trị công vụ | |
1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về công vụ và giá trị công vụ | |
1.2 Giá trị công vụ của một số nước trên thế giới | |
2. Biểu hiện chân giá trị của hệ thống công vụ Việt Nam | |
3. Đánh giá | |
III. PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO GIÁ TRỊ CÔNG VỤ CỦA HỆ THỐNG CÔNG VỤ VIỆT NAM. | |
KẾT LUẬN | |
I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG VỤ VÀ HỆ THỐNG CÔNG VỤ
1. Công vụ
Công vụ là một khái niệm không mới nhưng việc chính thức hóa bằng việc thể chế hóa thành các quy định của pháp luật vẫn là điều còn mới mẻ. Khi nhắc đến Công vụ một cách chung chung ta sẽ hiểu công vụ theo nghĩa của các cụm từ như: hoạt động công vụ, chế độ công vụ, nền công vụ. Trong đó, hoạt động công vụ theo Luật cán bộ, công chức quy định thì “hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức….”; còn chế độ công vụ tức là các quy định pháp luật về công vụ; nền công vụ là nghĩa rộng nhất, bao hàm không chỉ hai nghĩa trên (hoạt động công vụ và chế độ công vụ), mà cả chủ thể thực hiện hoạt động công vụ và thực tiễn hoạt động công vụ.
Tuy nhiên, ta thường hiểu công vụ theo nghĩa hoạt động. Vì thế, Luật cán bộ, công chức đã đua ra định nghĩa về hoạt động công vụ, đây là một điểm mới so với pháp luật hiện hành, vì trước đây chưa có văn bản nào định nghĩa khái niệm này.
Luật cán bộ, công chức đưa ra định nghĩa về hoạt động công vụ với phạm vi rất rộng và ranh giới không rõ ràng nhưng xuất phát từ thực tiễn thực thi công vụ ở nước ta ta hiểu khái niệm công vụ một cách đầy đủ nhất đó là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính nước, trong các đơn vị sự nghiệp công lập, các đơn vị lực lượng vũ trang và doanh nghiệp nhà nước.
Một cách chung nhất, Công vụ là một hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo qui định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội.
2. Cán bộ, công chức
Theo luật Cán bộ, công chức người thực thi công vụ là cán bộ, công chức. Tại điều 4 Luật cán bô, công chức quy định:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
3. Hệ thống công vụ
Hệ thống công vụ được hiểu gần giống với nền công vụ nhưng chúng không đồng nhất được với nhau. Khi cắt nghĩa ta thấy, hệ thống công vụ và nền công vụ đều chỉ ra các thành tố cấu thành nên công vụ nhưng với nền công vụ thì các thành tố đó chỉ là sự cộng hợp đơn giản theo nghĩa là tập hợp, còn đối với hệ thống công vụ thì lại chỉ ra mối quan hệ giữa các thành tố và trật tự sắp đặt của chúng.
Như vậy, hệ thống công vụ là tập hợp của các yếu tố cấu thành nên công vụ và mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó.
Các thành tố của hệ thống công vụ bao gồm:
- Cán bộ, công chức: chủ thể thực thi công vụ;
- Nhiệm vụ, quyền hạn: được trao cho cán bộ, công chức để đảm bảo thẩm quyền thực thi công vụ;
- Quy định, quy chế: các văn bản pháp luật, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực thi công vụ;
- Các nguyên tắc: là những tư tưởng cơ bản làm nền tảng chỉ đạo việc thực thi công vụ;
- Thực tiễn hoạt động: chỉ ra tiến độ, những thành tựu và hạn chế của việc thực thi công vụ.
Trung tâm của các thành tố cấu thành nên hệ thống công vụ chính là cán bộ, công chức – người thực thi công vụ. Để thực thi công vụ thì mỗi cán bộ, công chức phải được trao cho một nhiệm vụ cụ thể kèm theo quyền hạn xác định để hoàn thành nhiệm vụ, muốn thực hiện đúng nhiệm vụ được giao thì cán bộ, công chức buộc phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định và quy chế làm việc. Thông qua đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức ta xác định được mức độ hoàn thành nhiệm vụ, đo lường kết quả thu được và những hạn chế còn tồn tại từ đó chỉ ra phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng thực thi công vụ và xác định các nhiệm vụ mới.
II. GIÁ TRỊ CÔNG VỤ CỦA HỆ THỐNG CÔNG VỤ VIỆT NAM
1. Một số cách tiếp cận giá trị công vụ
Theo cách tiếp cận hệ thống công vụ như trên với thành tố trung tâm cấu thành nên hệ thống công vụ là cán bộ, công chức thì ta hiểu rằng: giá trị công vụ của hệ thống công vụ chính là những giá trị cốt lõi hay chân giá trị của những công việc do cán bộ, công chức đảm nhận. Nó có những nét khác biệt cơ bản tạo thành một nét đặc trưng riêng khác với các công việc khác trong xã hội.
Công việc do cán bộ, công chức đảm nhận có một số đặc trưng sau đây:
- Là hoạt động hành chính nhà nước tức là hoạt động có tính chất phục vụ quyền lập pháp, phục vụ nhân dân và phục vụ xã hội;
- Là hoạt động có tính chuyên nghiệp: tính chất này nhằm bảo đảm cho hoạt động công vụ có tính chuyên môn cao, liên tục, ổn định, tạo cơ sở để giải quyết các vấn đề phức tạp, cụ thể nảy sinh trong việc thực hiện các chức năng quản lý nhà nước.
- Là hoạt động quản lý con người: Đây là hoạt động hành chính nhà nước, hoạt động của những người làm quản lý chuyên nghiệp. Nó không trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội nhưng bảo đảm các điều kiện, hỗ trợ, tổ chức cho hoạt động sản xuất của cải vật chất.
- Phương tiện cho hoạt động này là nguồn thông tin: cán bộ, công chức nhà nước thực hiện các chức năng thu thập, xử lý truyền đạt, bảo quản và tạo ra các nguồn thông tin để ra quyết định;
- Được đảm bảo bằng ngân sách nhà nước.
1.1 quan điểm của Hồ Chí Minh về công vụ và giá trị công vụ
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một kho tàng của tri thức nhân loại trong đó hàm chứa những chuẩn mực, chân giá trị của một người làm cách mạng và được Người gọi là Đạo đức cách mạng.
Trong di sản quý giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, tư tưởng tổ chức một nhà nước pháp quyền với một nền công vụ kiểu mới, đặc biệt, tư tưởng tổ chức một chính phủ theo mô hình chính phủ hiện đại với một nền công vụ "vì dân" là một di sản cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc để rút ra những bài học bổ ích cho việc xây dựng một nền hành chính nhà nước phù hợp xu thế phát triển trong một môi trường quốc tế năng động và phức tạp ngày nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền công vụ Việt Nam, bao gồm các nội dung về: Bản chất công vụ phục vụ nhân dân; xây dựng chế độ công vụ, công chức chuyên nghiệp; quản lý và sử dụng cán bộ, công chức; về chế độ khen thưởng, đãi ngộ cán bộ...
a) Về công tác xây dựng chế độ công vụ:
Ngay sau ngày công bố bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt nam dân chủ cộng hoà, ngày 3/9/1945 Hội đồng Chính phủ lâm thời Việt nam dân chủ cộng hoà họp phiên đầu tiên tại Hà Nội. Mở đầu phiên họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Sau 80 năm bị áp bức, bóc lột, và dưới chính sách ngu dân của thực dân Pháp, các bạn và tôi, chúng ta đều chưa quen với kỹ thuật hành chính. Nhưng điều đó không làm chúng ta lo ngại. Chúng ta vừa làm, vừa học, vừa học, vừa làm. Chắc chắn rằng chúng ta sẽ phạm khuyết điểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa, chúng ta có can đảm sửa chữa khuyết điểm, với lòng yêu nước yêu nhân dân sâu sắc, tôi chắc chúng ta sẽ thành công". Quan điểm chỉ đạo này của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa sâu sắc đối với công tác xây dựng, quản lý và điều hành bộ máy của chính quyền cách mạng. Theo Người, để quản lý và điều hành bộ máy của chính quyền cách mạng cần phải có kỹ thuật hành chính. Đây là vấn đề kỹ trị trong quản lý và điều hành đất nước trong hoạt động công vụ.
Nhiệm vụ quan trọng là phải thiết lập bộ máy quản lý của chính quyền và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức và kỹ năng tác nghiệp để quản lý, điều hành công việc của đất nước và phục vụ người dân. Vấn đề tổ chức và cán bộ là vấn đề quan trọng trong xây dựng chính quyền và nền công vụ. Cần phải có "óc tổ chức" trong kiến tạo bộ máy hành chính và xây dựng nền công vụ. Đồng thời trong bộ máy của chính quyền cách mạng và trong nền công vụ phục vụ người dân cần phải có đội ngũ cán bộ, công chức tinh thông, cần mẫn có kỹ năng và phương pháp làm việc khoa học, cẩn trọng. Người nhấn mạnh "cán bộ chăm chỉ làm việc chưa đủ, cần phải biết làm việc cho có phương pháp. Trong hoạt động công vụ, giao tiếp làm việc với dân, công chức phải có phương pháp làm việc "sao cho được lòng dân". Người chỉ rõ "muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh... Ngoài ra, đối với tất cả mọi người trong tầng lớp dân chúng, ta phải có một thái độ mềm dẻo, khôn khéo, biết nhân nhượng, biết trọng nhân cách người ta... Phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư". Đây chính là đạo đức nghề nghiệp của người công chức trong hoạt động công vụ theo tinh thần và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể nói, trong xây dựng đội ngũ công chức của chính quyền cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức của người công chức.
Ngày 17/1/1946, tại cuộc họp của các giám đốc và chủ tịch uỷ ban công sở Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài phát biểu quan trọng căn dặn anh em viên chức phải rèn luyện bốn đức tính là: cần, kiệm, liêm, chính. Người nói: "có cần, có kiệm không tiêu đến nhiều tiền, anh em viên chức mới trở nên liêm, chính để cho người ngoài kính nể được. Anh em viên chức phải gột bỏ những ý nghĩ trái với 4 nguyên tắc trên do chính sách của bọn thực dân gây nên trong đám công chức thời Pháp và Nhật thuộc. Đây là 4 nguyên tắc đồng thời là các chuẩn mực đạo đức người công chức, viên chức nhà nước phải tuân thủ, phải rèn luyện để trở thành những công bộc của nhân dân.
b) về công tác xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp và chế độ công vụ phục vụ nhân dân:
Thể hiện tập trung và cụ thể trong Quy chế công chức Việt Nam do Người ký ban hành kèm theo Sắc lệnh số 76 ngày 20/5/1950. Đây là văn bản pháp luật cao nhất của Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà quy định về chế độ công chức, công vụ. Sắc lệnh quy định từ ngày 1/5/1950 thực hiện thống nhất một Quy chế công chức, định rõ nghĩa vụ, quyền lợi của công chức, cùng các thể lệ về việc tổ chức quản lý và việc sử dụng công chức trong toàn quốc. Quy chế quy định "công chức Việt Nam là những công dân giữ một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân, dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính phủ, công chức phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm. Đi đôi với nhiệm vụ trên, công chức Việt Nam cần có một địa vị xứng đáng với tài năng của mình".
Quy chế quy định rõ ai là công chức, cụ thể là: "những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan chính phủ, ở trong hay ngoài nước, đều là công chức theo quy chế này trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định". Có thể nói, định nghĩa ngắn gọn rành mạch, rõ ràng, chính xác về công chức nêu trên xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản có tính chất hiến định là: chính quyền nhà nước là chính quyền của nhân dân "tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân", chính quyền nhà nước phải là "chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân". Theo định nghĩa này, những người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể, các hội, tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp công và tư đều không được quan niệm là công chức nhà nước. Theo Quy chế này "công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những công việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư".
Quy chế quy định rõ ai là công chức, cụ thể là: "những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan chính phủ, ở trong hay ngoài nước, đều là công chức theo quy chế này trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định". Có thể nói, định nghĩa ngắn gọn rành mạch, rõ ràng, chính xác về công chức nêu trên xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản có tính chất hiến định là: chính quyền nhà nước là chính quyền của nhân dân "tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân", chính quyền nhà nước phải là "chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân". Theo định nghĩa này, những người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể, các hội, tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp công và tư đều không được quan niệm là công chức nhà nước. Theo Quy chế này "công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những công việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư".
Công chức có quyền ''hưởng lương, các thứ phụ cấp và hưu bổng; nghỉ hàng năm có lương, được chăm sóc về sức khoẻ và trợ cấp khi bị tai nạn; được hoạt động về chính trị, văn hoá và xã hội; gia nhập công đoàn.
Ngoài ra, Quy chế công chức Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành năm 1950 còn có các chương quy định cụ thể về "khen thưởng, thăng thưởng", về kỷ luật, về nghỉ hưu, ra ngạch.
Có thể khẳng định, các quy định trong Quy chế công chức Việt Nam thể hiện tinh thần xây dựng một nền hành chính (công vụ) dân chủ, chính quy, hiện đại, một nền công vụ phục vụ nhân dân, một đội ngũ công chức nhà nước cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, là công bộc của nhân dân. Vì vậy chúng ta cần đề cao trách nhiệm trong việc kế thừa và phát huy giá trị to lớn của quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chế độ công vụ và đội ngũ công chức phục vụ nhân dân.
1.2 Giá trị công vụ của một số hệ thống công vụ trên thế giới
Các giá trị trong các cơ quan nhà nước thường được xem là hình ảnh trung thực của các giá trị mà xã hội giữ gìn. Do đó những người lãnh đạo trong khu vực công luôn cố gắng hành động theo những giá trị được tôn trọng của cộng đồng, công chúng hay những nhóm người mà họ phục vụ. Hoạt động công vụ là hoạt động thực thi công vụ của nhà nước do công chức đảm nhận. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của quốc gia để có cách nhìn nhận giá trị cốt lõi. Cơ sở để xác định giá trị cốt lõi của công vụ có thể khác nhau giữa mỗi nước nhưng những chuẩn mực xã hội, nguyên tắc dân chủ và chuẩn mực nghề nghiệp là những vấn đề chung và cơ bản cần có trong giá trị nền công vụ của mỗi nước.
Nền công vụ Thái Lan
Thái Lan đang tiến hành cải cách khu vực công nhằm quản trị và quản lý công tốt hơn với mục đích cao cả là mang lại lợi ích cho nhân dân, cho xã hội và cho đất nước. Cùng với cải cách về cơ cấu, chẳng hạn như các luật lệ, cơ cấu tổ chức và quy trình làm việc, Chính phủ hoàng gia Thái Lan đã sử dụng những can thiệp đối với phát triển nguồn nhân lực như là một chiến lược khác để xây dựng năng lượng cho công chức nhằm đáp ứng được những hoạt động cải cách. Những nỗ lực này bao gồm phát triển những nhà lãnh đạo có kỹ năng và đạo đức, thay đổi quan điểm, khuyến khích văn hóa đạo đức và xây dựng các kỹ năng quản lý của tất cả các công chức Thái Lan.
Vì công chức có vai trò qua trọng trong việc phát triển đất nước và cung cấp dịch vụ cho nhân dân cùng với các bên liên quan khác nhằm đảm bảo sự đúng mực về đạo đức và tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao, mở ra mối quan hệ với các cơ quan khác, cũng như mang lại tính hiệu quả và hiệu lực cho việc thực thi công việc. Chính vì vậy mà luật đạo đức công vụ đươc ra đời để giữ gìn danh dự và uy tín cho công chức, do đó sẽ nâng cao sự kính trọng của nhân dân đối với công chức. Ngoài ra chương trình Theo bước chân Hoàng gia và Chương trình phát triển những nhà lãnh đạo làn sóng mới được đề ra dành cho các công chức Thái Lan. Theo đó thì giá trị nền công vụ của Thái Lan được thể hiện ở những đặc điểm cần có của một người công chức. Đó là những đặc điểm như:
- Có phẩm chất đạo đức để làm việc đúng đắn
- Trung thực và có tinh thần trách nhiệm
- Công khai
- Không phân biệt
- Hoạt động nhằm vào kết quả
Luật Đạo đức nghề nghiệp của Thái Lan ra đời năm 1994 với 16 điều cụ thể về đạo đức công chức. Theo đó, công chức phải đề cao các nguyên tắc đạo đức, bản thân phải cư xử sao cho tương xứng với cương vị là một công chức nhà nước. Đồng thời công chức phải thi hành nhiệm vụ một cách trung thực, không được có thành kiến và không được mưu lợi cá nhân. Công chức phải làm việc đúng giờ và phải dành toàn bộ thời gian cho lợi ích của công vụ; phải thực hiện nhiệm vụ với hết khả năng, thận trọng và nhanh nhạy với một sự cần mẫn, chính xác hợp lý; phải luôn nhớ đến những lợi ích sẽ đem lại cho dân chúng.
Trong quan hệ với dân chúng, công chức phải phục vụ dân một cách đẹp đẽ, rộng lượng, nhã nhặn, lịch thiệp, dịu dàng, hết mình. Khi không thể giúp được người dân thì phải giải thích lý do và đề xuất đường đi nước bước đúng hướng cho người dân biết. Công chức phải kiềm chế, không được nhận từ người mình phục vụ quà biếu hay ân huệ có giá trị vượt quá giá trị mà người này thường cho người kia do quý mến, và phải báo cáo với cấp trên về việc nhận quà biếu mà sau khi nhận công chức đó thấy nó có giá trị đáng kể để có các xử lý thích hợp.
Những giá trị này được tuyên truyền sâu rộng trước công chúng bằng nhiều phương tiện khác nhau. Khi những giá trị này được thấm nhuần trong xã hội, công luận sẽ được coi là một áp lực tốt để công chức tự trau dồi đạo đức, tự hoàn thiện mình để thực hiện công việc tốt hơn
Nền công vụ Singapore
Singapore là một đất nước có nền công vụ phát triển và điển hình. Để có được những thành tựu như vậy thì nước này đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng một nền đạo đức công vụ phù hợp với những người công chức làm việc trong khu vực này. Giá trị cốt lõi trong đạo đức công vụ của Singapore được thể hiện ở một số điểm cụ thể như:
Trước tiên họ có một tầm nhìn chung – đưa Singapore từ thế giới thứ 3 lên thế giới thứ nhất. Lúc đó Singapore là một quốc gia trẻ, mới giành độc lập trước đó mấy năm. Những nhà quy hoạch có cảm tưởng họ đang tạo ra vận mệnh của chính họ. Suy nghĩ đó khiến họ đam mê công việc của mình. Và họ tin rằng có thể làm được điều đó vì họ là những người tốt nhất và thông minh nhất. Họ tự hào về công việc và muốn mọi việc họ làm có chất lượng cao nhất. Qua thời gian, những công chức như họ giúp Singapore xây dựng được cái như những người ngoại quốc gọi là nền văn hóa chất lượng xuất sắc.
Singapore muốn trở thành một phần của thế giới thứ nhất. Sau đó họ tuyển dụng những người chia sẻ tầm nhìn đó. Họ không quan tâm đến người được tuyển có kỹ năng hay không. Cái mà họ quan tâm đó là thái độ của người được tuyển. Ứng viên chỉ cần qua một cuộc phỏng vấn. Mục đích là để đánh giá thái độ. Rằng tại sao anh muốn tham gia vào nền công vụ. Anh có làm khách hàng hài lòng không? Anh làm việc với đồng sự như thế nào?...Lý do đơn giản là kiến thức, kỹ năng có thể dễ dàng tích lũy được nhưng thái độ khó thay đổi. Khi bạn có những cán bộ có thái độ đúng, bạn có cơ hội thành công. Ngoài ra họ thường xuyên đánh giá cán bộ và khen thưởng cán bộ làm việc tốt
Nền công vụ nước Anh
Nền công vụ nước Anh đề ra bốn giá trị cốt lõi là tính liêm chính, trung thực chân thật, tính khách quan, không thiên vị
Luật công vụ Canada
Canada cũng đưa ra bốn nhóm tiêu chí về giá trị cốt lõi là dân chủ, chuyên môn nghề nghiệp, chuẩn mực ứng xử, giá trị nhân dân
Nhìn tổng thể chung trong giá trị của một số nền công vụ trên thế giới ta có thể khái quát và tập trung vào tính khách quan, tính trung thực, tính chuyên nghiệp và tính hiệu quả. Các quốc gia có cùng quan điểm là cần phải tôn trọng những giá trị chuẩn mực xã hội đã có; công chức khi làm việc phải phát huy những gì được cho là thực chất, phản ánh những gì là sự thật, tất cả vì mục đích là tạo ra một kết quả tốt nhất.
2. Biểu hiện chân giá trị của hệ thống công vụ Việt Nam
Cũng như nhiều loại nghề nghiệp khác, hoạt động công vụ do công chức đảm nhận phải hướng đến chân giá trị nhất định. Do bản chất của công việc do công chức đảm nhận là quản lý nhà nước và cung cấp nhiều loại dịch vụ (công) cho xã hội nên định hướng những giá trị cốt lõi của công vụ phải được xác định dựa trên những đặc tính công việc đó.
Do hoạt động của công chức là thực thi các công việc của nhà nước nên phải hiểu rõ đối tượng mà công chức hướng đến cũng như mục tiêu của công việc mà họ đảm nhận. Cả hai yếu tố này hoàn toàn không do người thực thi công việc quyết định mà do chính nhà nước và đích thực là do nhân dân quyết định. Công việc mà công chức đảm nhận chính là sự ủy thác, sự tin tưởng của công chúng và họ giao cho nhà nước và thông qua công chức thực hiện.
Tính chất đặc biệt nêu trên của công việc do công chức đảm nhận, nên các đạo luật về việc làm trong khu vực nhà nước, gọi chung là luật công vụ. Mỗi một nước, căn cứ vào điều kiện cụ thể đưa ra một hệ thống các giá trị cốt lõi của công việc do công chức đảm nhận (công vụ).
Công việc do công chức đảm nhận là một bộ phận quan trọng của Chính phủ tất cả các nước trên thế giới. Đó chính là những hoạt động nhằm giúp Chính phủ xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển quốc gia cũng như cung cấp dịch vụ cho công dân. Công chức thực thi công việc phải chịu trách nhiệm đối với cơ quan, Nhà nước và công dân.
Trong pháp luật Việt Nam về cán bộ, công chức, thuật ngữ công vụ cũng đã được sử dụng. Nhưng luật cán bộ, công chức ở của Việt Nam chỉ quy định một số nguyên tắc cơ bản cho hoạt động công vụ như sau:
Điều 3. Các nguyên tắc trong thi hành công vụ
1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
2. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
3. Công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát.
4. Bảo đảm tính hệ thống, thống nhất, liên tục, thông suốt và hiệu quả.
5. Bảo đảm thứ bậc hành chính và sự phối hợp chặt chẽ.
Những nguyên tắc này là những tư tưởng chỉ đạo cơ bản để cho hoạt động thực thi công vụ diễn ra khách quan, trung thực, chuyên nghiệp và hiệu quả giống như một số nền công vụ của một số nước trên thế giới nêu trên. Các nguyên tắc nói chung có đặc điểm là nếu tuân thủ thì khả năng đạt được mục tiêu cao nhưng nếu không tuân thủ thì không thể đạt được mục tiêu đã đề ra, do đó việc tuân thủ nguyên tắc trong thực thi công vụ rất quan trọng vì kết quản hoạt động công vụ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhà nước, công dân. Xuất pháp từ tầm quan trọng của hoạt động thực thi công vụ, khi xây dựng các nguyên tắc cho hoạt động này cần phải đưa ra được những chân lý mang tính chuẩn mực để cho cán bộ, công chức khi thực thi công vụ tự nhận thức được rằng cần phải tuân thủ các nguyên tắc đó.
Ngoài ra trong luật cán bộ, công chức còn quy định về đạo đức đối với người thực thi công vụ như sau:
Điều 15. Đạo đức của cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ.
Mặc dù khái quát đạo đức của cán bộ, công chức một cách chung chung như vậy nhưng những đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư vẫn là những chuẩn mực rất có giá trị đối với một người làm cách mạng (cách diễn đạt của Hồ Chí Minh) hay đối với cán bộ, công chức phục vụ nhân dân.
Điều 16. Văn hóa giao tiếp ở công sở
1. Trong giao tiếp ở công sở, cán bộ, công chức phải có thái độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc.
2. Cán bộ, công chức phải lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp; công bằng, vô tư, khách quan khi nhận xét, đánh giá; thực hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ.
3. Khi thi hành công vụ, cán bộ, công chức phải mang phù hiệu hoặc thẻ công chức; có tác phong lịch sự; giữ gìn uy tín, danh dự cho cơ quan, tổ chức, đơn vị và đồng nghiệp.
Điều 17. Văn hóa giao tiếp với nhân dân
1. Cán bộ, công chức phải gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc.
2. Cán bộ, công chức không được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân khi thi hành công vụ.
Như vậy hoạt động công vụ là hoạt động thực thi công việc của nhà nước do công chức đảm nhận, vì vậy công chức thực thi công việc trong khu vực nhà nước phải hướng đến những giá trị nghề nghiệp của mình. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia để có những cách nhìn nhận giá trị cốt lõi. Do tính chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân nên khi thực thi công việc, công chức phải quan tâm, xem xét tất cả các yếu tố thuộc về giá trị cốt lõi của những hoạt động của nhà nước ủy quyền cho công chức thực hiện, đặc biệt là các nguyên tắc được ghi trong luật cán bộ, công chức để phục vụ nhân dân tốt hơn, nâng cao hơn nữa giá trị của nền công vụ nước ta.
3. Đánh giá
Trước hết, cần khẳng định đại bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức của chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, cố gắng thực hiện và phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, giữ vững đạo đức, phẩm chất cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, chấp hành sự phân công của tổ chức, lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân. Mặc dù gặp nhiều khó khăn và chịu tác động phức tạp trong điều kiện chuyển đổi kinh tế - xã hội, nhưng đội ngũ cán bộ, công chức đã góp phần đóng vai trò quyết định những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, kể cả một số cán bộ, đảng viên cao cấp thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, tha hóa về đạo đức, lối sống. Một bộ phận cán bộ, công chức né tránh, thiếu bản lĩnh đấu tranh với những hành vi quan liêu, tham nhũng, tiêu cực. Một số cán bộ, công chức nhà nước, chưa thực sự lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu, làm thước đo chủ yếu nhất cho mức độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ của mình. Quan hệ của họ với nhân dân thậm chí còn mang dấu ấn cai trị theo kiểu ban phát, thiếu bình đẳng, thiếu tôn trọng. Từ đó, dẫn đến tình trạng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, gây phiền hà đối với nhân dân và lợi dụng chức trách, thẩm quyền được Nhà nước và nhân dân giao phó để nhận hối lộ, tham nhũng, buôn lậu, làm biến dạng những giá trị và tiêu chuẩn đích thực của người cán bộ, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII nhận định: "Một bộ phận cán bộ thoái hóa biến chất về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng phí của công; quan liêu, ức hiếp dân, gia trưởng độc đoán; có tham vọng cá nhân, cục bộ, kèn cựa địa vị, cơ hội, kém ý thức tổ chức kỷ luật, phát ngôn và làm việc tùy tiện, gây mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng".
Đáng chú ý là số lượng cán bộ, công chức bị xử lý kỷ luật và truy cứu trách nhiệm hình sự, trong đó có cả một số cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, trong những năm gần đây ngày càng tăng. Điều đó phản ánh sự xói mòn phẩm chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, công chức, làm suy giảm uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với chế độ.
Đáng chú ý là số lượng cán bộ, công chức bị xử lý kỷ luật và truy cứu trách nhiệm hình sự, trong đó có cả một số cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, trong những năm gần đây ngày càng tăng. Điều đó phản ánh sự xói mòn phẩm chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, công chức, làm suy giảm uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với chế độ.
Thực trạng của những khuyết, nhược điểm về phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, song chủ yếu do những nguyên nhân chủ quan. Không ít cán bộ, công chức còn xem thường những chuẩn mực đạo đức, nhân cách, nên thiếu nghiêm khắc với bản thân, không thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng mình. Cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát của tổ chức và thủ trưởng trực tiếp cũng như của nhân dân đối với hoạt động của cán bộ, công chức còn hạn chế, chưa thường xuyên, nghiêm túc và thiếu đồng bộ. Việc xử lý các vi phạm đạo đức của cán bộ, công chức chưa nghiêm đã dẫn đến hạn chế kết quả răn đe, giáo dục.
Công tác giáo dục đạo đức chậm được đổi mới: nội dung giáo dục chưa cụ thể, sát hợp với từng đối tượng, còn giáo điều, chủ quan, phiến diện, duy ý chí, phi thực tế, thiếu cơ sở khoa học; hình thức giáo dục đơn điệu, qua loa đại khái hoặc phô trương hình thức, dễ gây nhàm chán. Do đó, hiệu quả giáo dục đạo đức chưa cao, thậm chí có trường hợp phản tác dụng. Khi đề cập đạo đức thì coi nhẹ hoặc quên tài năng, nhưng khi cần nhấn mạnh tài năng của người cán bộ thì lại có biểu hiện coi nhẹ đạo đức, coi thường lòng tốt, phẩm hạnh một cách phiến diện, cực đoan.
Công tác giáo dục đạo đức chậm được đổi mới: nội dung giáo dục chưa cụ thể, sát hợp với từng đối tượng, còn giáo điều, chủ quan, phiến diện, duy ý chí, phi thực tế, thiếu cơ sở khoa học; hình thức giáo dục đơn điệu, qua loa đại khái hoặc phô trương hình thức, dễ gây nhàm chán. Do đó, hiệu quả giáo dục đạo đức chưa cao, thậm chí có trường hợp phản tác dụng. Khi đề cập đạo đức thì coi nhẹ hoặc quên tài năng, nhưng khi cần nhấn mạnh tài năng của người cán bộ thì lại có biểu hiện coi nhẹ đạo đức, coi thường lòng tốt, phẩm hạnh một cách phiến diện, cực đoan.
Một biểu hiện cụ thể và rõ nét nhất thể hiện nhược điểm mà nền công vụ Việt Nam đang gặp phải trong việc giữ gìn giá trị nền công vụ của nước mình đó là vụ án ở Tiên Lãng – Hải Phòng. Chính trong những ngày nóng bỏng ở đây, nhiều cán bộ các cấp từ tỉnh đến huyện ở Hải Phòng đã có những phát ngôn đáng nhớ. Dĩ nhiên là khó có thể đánh giá đầy đủ mỗi con người chỉ bằng vài câu nói, nhưng những gì dư luận nghe và thấy từ Hải Phòng cũng có thể thấy rằng đạo đức, tư cách, nhận thức và dường như năng lực lãnh đạo của một vài cá nhân là “có vấn đề”. Một việc phá nhà của người khác thì không dễ gì người dân có thể làm được mà vị lãnh đạo lại dễ dàng tin vào báo cáo của cấp dưới. Một vị lãnh đạo lực lượng vũ trang vốn có nhiệm vụ phải bảo vệ dân nhưng lại rất hào hứng khi nói về kinh nghiệm phối hợp cưỡng chế rất là hay, rất là đẹp và có thể viết thành sách. Còn một cán bộ khác thì chẳng ngần ngại gì khi mạo danh một vị cán bộ nghỉ hưu để đánh lừa dư luận. Còn rất nhiều cán bộ khác tuy đã biết mình sai nhưng vẫn không thừa nhận mà vẫn tìm cách chối tội, đổ lỗi trách nhiệm cho người khác. Qua đây có thể nói rằng, đạo đức, tư cách của hàng loạt quan chức thể hiện qua vụ Tiên Lãng là rất yếu kém và đáng báo động. Khi bị xử lý kỷ luật, những cán bộ Đảng viên chịu trách nhiệm trực tiếp hoặc có hành vi sai phạm như chỉ đạo điều hành, tham mưu, ra quyết định… là những người được xem xét đến đầu tiên và cũng dễ dàng quy trách nhiệm. Nhưng những cá nhân có những phát ngôn không đúng, nhận thức lệch lạc cũng cần phải được kiểm điểm, xem xét lại về đạo đức, năng lực xem anh ta có xứng đáng ngồi ở vị trí đó không. Đó không chỉ là mong muốn của dư luận mà còn là một trong những việc cần làm để thực hiện nghị quyết trung ương 4 về xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
III. PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO GIÁ TRỊ CÔNG VỤ CỦA HỆ THỐNG CÔNG VỤ VIỆT NAM
Để nâng cao đạo đức công vụ, cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ. Hệ thống giải pháp này vừa đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện của con người; vừa có cơ chế tạo điều kiện cho các giá trị đạo đức phát triển và ngăn ngừa hạn chế sự sa sút, suy thoái đạo đức.
1. Loại giải pháp về giáo dục, đề cao giá trị đạo đức, đề cao sự tự rèn luyện, tu dưỡng của cán bộ, công chức. Khuyến khích, tôn vinh sự hướng thiện vì lý tưởng phục vụ nhân dân, đất nước, sự nghiệp chung, vì mọi người của cán bộ, công chức. Trong nền kinh tế thị trường càng phải đề cao loại giải pháp này, coi trọng giá trị đạo đức, không vụ lợi, ích kỷ. Thực hiện loại giải pháp này cần tăng cường công tác giáo dục và tự giáo dục; có sự khen thưởng, tôn vinh những người làm việc tốt, phục vụ tận tụy và có hiệu quả công vụ cao.
2. Loại giải pháp đổi mới hoàn thiện cơ chế để cán bộ, công chức có điều kiện phát huy đạo đức, thực hiện tốt nhiệm vụ, phục vụ tốt nhân dân. Phải rõ chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan, tổ chức; từng cá nhân cá bộ, công chức phù hợp với sự quản lý và phục vụ trong thời kỳ mới. Cơ chế phải loại bỏ được những yếu tố dẫn tới khả năng tiêu cực, xin cho, sách nhiễu dân trong tổ chức hoạt động, trong thủ tục của Nhà nước. Việt Nam đang cải cách hành chính, tạo mô hình mới về tổ chức và hoạt động hợp lý của bộ máy hành chính nhà nước cũng là tạo cơ chế để cho cán bộ, công chức làm điều tốt, có điều kiện cống hiến, phát huy năng lực phục vụ đất nước và nhân dân.
3. Loại giải pháp về đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với cán bộ, công chức.
- Cải cách để có tiền lương đảm bảo trả đúng lao động của cán bộ, công chức, để cán bộ, công chức không tham nhũng, sách nhiễu, buộc phải làm việc kiếm sống thêm, buộc phải làm những việc tiêu cực. Tiền lương, tiền thưởng phải thể hiện giá trị cống hiến, lao động của cán bộ, công chức, tạo động lực thực hiện nhiệm vụ.
- Các chế độ, chính sách khuyến khích sự tận tâm thực hiện công vụ; khen thưởng thích đáng về vật chất và tinh thần cho cán bộ, công chức làm việc tốt, tận tụy và trong sạch (các cơ quan đơn vị nên có quỹ khen thưởng dành cho cán bộ, công chức làm việc tốt).
4. Loại giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức; kiểm tra, giám sát; ngăn ngừa và xử phạt sự vi phạm đạo đức công vụ.
- Loại giải pháp này đòi hỏi phải có quy định rõ, cụ thể các hành vi cán bộ, công chức không được làm; có chế tài đối với các hành vi vi phạm đạo đức. Tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ; tăng cường kỷ luật; chống tham nhũng, quan liêu. Xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm đạo đức công vụ, tùy theo mức độ vi phạm; kể cả truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và hoạt động công vụ. Hoàn thiện và thực hiện tốt quyền dân chủ của nhân dân, đặc biệt là quyền dân chủ cơ sở để nhân dân thực hiện tốt quyền trực tiếp và gián tiếp kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ của cán bộ, công chức.
- Hoàn thiện cơ chế quản cán bộ, công chức, làm rõ thẩm quyền quản lý từng loại cán bộ, công chức của từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, đơn vị, từng cá nhân, người đứng đầu để rõ quyền hạn và trách nhiệm trong quản lý và chịu trách nhiệm đối với hoạt động công vụ của cán bộ, công chức thuộc quyền.
5. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về đạo đức công vụ. Có các quy định cụ thể, đầy đủ về tiêu chuẩn đạo đức cho các loại cán bộ công chức. Xây dựng một hệ thống đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức công chức hành chính quản lý, đạo đức nghề nghiệp thầy giáo, đạo đức nghề nghiệp thầy thuốc; đạo đức khoa học, đạo đức cán bộ, công chức tư pháp, giữ gìn pháp luật,… Trên cơ sở đó hình thành dần, hoàn thiện dần thể chế đạo đức công vụ để xây dựng luật Đạo đức công chức công vụ trong thời gian tới.
Các giải pháp nêu trên phần nào mang tính phương hướng, để có thể thực hiện đầy đủ các giải pháp đó cần phải có những mô hình cụ thể, chi tiết. Do những hạn chế về năng lực nghiên cứu cũng nhưng mục đích nghiên cứu của đề tài không cho phép đi sâu một cách chi tiết về từng giải pháp cụ thể.
KẾT LUẬN
Hệ thống công vụ là một bộ máy cho ra những sản phẩm gọi là dịch vụ hành chính công. Việc xem xét và nhìn nhận lại những giá trị của nó sẽ giúp chúng ta cũng như các nhà hoạch định chính sách hiểu được tầm quan trọng vủa hoạt động công vụ. Hoạt động công vụ với vai trò là phục vụ mục tiêu chính trị, phục vụ nhà nước và phục vụ nhân dân đã phản ánh một tầm quan trọng mà không có một hệ thống tư nhân nào có thể đảm nhận công việc này. Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động công vụ chúng ta cần phải đề cao giá trị của nó để biến hoạt động công vụ thành một chuẩn mực, một chân giá trị mang sứ mệnh phục vụ vì lợi ích của nhà nước, của nhân dân là trên hết. Những chuẩn mực và chân giá trị được hình thành sẽ dẫn dắt hành vi của các cán bộ, công chức – người thực thi công vụ theo một cách tự nguyện tuân thủ các nguyên tắc cuả hệ thống và sự chân thành trong công việc tất nhiên sẽ cho ra những sản phẩm có chất lượng để hoàn thành nhiệm vụ nhà nước giao phó và đáp lại lòng tin cảu dân chúng gửi gắm cho mỗi cán bộ, công chức. Công cuộc cải cách hành chính ở nước ta không ngừng được thực hiện, thiết nghĩ đây cũng là một cách để dần quy chuẩn hành vi của cán bộ, công chức đến một chân giá trị chung. Chân giá trị chung này sẽ tác dụng mỗi khi một cá nhân trong xã hội được liệt vào trong hàng ngũ của cán bộ, công chức họ sẽ nhận thức được rằng họ hoạt động với mục đích phục vụ không vì mục tiêu cá nhân mà vì mục tiêu của nhà nước, họ vẫn sẵn sàng làm việc cho dù biết điều dó.
Nâng cao giá trị của hệ thống công vụ Việt Nam gắn liền với nâng cao đạo đức công vụ của cán bộ, công chức vì nói cho cùng thì cán bộ, công chức chính là người thực thi công vụ, người vận hành hệ thống công vụ. Các cuộc cải cách hành chính được tiến hành trên rất nhiều phương diện nhưng chúng ta vẫn luôn phải khẳng rằng: “cải cách con người là cải cách quan trọng nhất”./.
TÀI LIỆU
1. Đạo đức trong nền công vụ - Nxb Lao động – Xã hội do Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn và Nguyễn Thị Kim Thảo biên soạn
No comments:
Post a Comment